Diễn đàn Tuổi trẻ Việt Nam | 2TVN Forum :: Thư viện truyện :: Loại truyện khác :: Truyện kinh dị
Trang 2 trong tổng số 3 trang • 1, 2, 3
- Chương 10:
Tôi khó khăn lắm mới kìm được không nổi cáu.
- Trong lúc cho thằng bé đi nhờ ông có nói chuyện với nó không? Ông có hỏi nó từ đâu tới không?
Với một vẻ chậm chạp đến bực mình, rốt cuộc ông bưu tá cũng chia thư xong. Ông rít một hơi thuốc, tựa hai cánh tay lên mặt quầy, rồi nhìn tôi cười thân mật.
- Xin lỗi anh, tôi chỉ có thể mỗi lúc làm một việc thôi. Bây giờ soạn xong đống thư rồi, tôi có thể tiếp chuyện với anh. Anh đang nói với tôi về Johnny Jackson phải không?
- Đúng vậy. Khi ông cho Johnny đi nhờ ông có hỏi nó từ đâu đến không?
- Tất nhiên là có chứ. Nhưng thằng bé chỉ nói là nó tới từ một nơi rất xa. Theo gương mặt nhợt nhạt và mệt mỏi của nó, tôi hiểu rằng nó không muốn nói chuyện. Tôi vốn tôn trọng cuộc sống riêng tư của người khác. Và thế là tôi thôi không hỏi gì nữa.
- Khi ông dẫn thằng bé tới nhà có chuyện gì xảy ra không?
- Tôi không đưa nó vào nhà. Tôi cho nó xuống cạnh đường rồi chỉ nhà cho nó. Tôi nghĩ tôi có thể nói với anh điều này nữa. Chuyện này tôi chưa hề kể với ai. Vả lại cũng lâu lắm rồi. Thực lòng tôi rất muốn giúp anh tìm lại Johnny. (Ông rít một hơi thuốc và có vẻ lưỡng lự).
- Ông còn muốn nói gì với tôi nữa? - Tôi hỏi. - Xin ông hãy nghe tôi. Johnny là người thừa kế của ông già Jackson. Giúp tôi tìm Johnny tức là ông giúp ông già Jackson đấy.
- Anh nói đúng. Cuối cùng, thằng bé xuống xe và cám ơn tôi rất tử tế. Rồi nó lấy trong túi ra một chiếc phong bì. Đã mười năm trôi qua rồi, nhưng tôi còn nhớ vẻ mặt lo lắng của nó khi nó nhìn tôi. Nó bảo rằng nó không có tiền mua tem. Nó nhờ tôi bỏ giúp nó vào thùng thư ở bưu điện. Nó bảo việc này rất quan trọng. Tôi đã làm giúp nó. Tôi nhìn thấy nó lần cuối cùng khi nó lên dốc đi vào nhà.
- Như vậy, ý ông muốn nói trong suốt sáu năm trời, tháng nào ông cũng đưa thư tới cho Jackson, nhưng không bao giờ gặp thằng bé, phải không?
- Đúng vậy. Xe tôi kêu ầm ĩ lắm nên Fred nghe thấy tôi tới. Lần nào ông cũng lết ra chỗ đường ngoặt lấy thư, lầm bầm mấy câu rồi quay về.
- Thế ông có bao giờ hỏi thăm sức khỏe thằng bé không?
- Tôi rất muốn làm điều đó, nhưng ông già chẳng bao giờ nói gì. Ông ta cầm lấy thư rồi quay đi ngay. Tôi thường phát thư vào lúc thằng nhỏ đến trường nên không bao giờ gặp nó. Fred thậm chí chẳng nói gì ngay cả lần tôi mang tới cho ông Huân chương của con trai. Tôi hiểu đó là Huân chương vì thấy có hộp và bao gói cẩn thận. Ông giật nó từ tay tôi, ký nhận rồi bỏ đi.
- Thế bức thư mà Johnny đưa cho ông… tôi biết đã mười năm trôi qua, nhưng ông còn nhớ nó gửi cho ai không?
- Ồ, có chứ. Tôi vốn tò mò mà. Hơn nữa, thằng bé như từ trên trời rơi xuống và lại tìm gặp lão già Fred thì ai không tò mò muốn biết.
- Tôi hiểu. (Tôi cố nén hét lên vì vui sướng). Thế bức thư gửi cho ai?
- Bức thư ấy à? Nó được gửi cho bà Stella Costa, phố Macey ở Secomb, số bảy hay chín gì đó.
Tôi tự hỏi không biết mình đã chạm đúng mỏ vàng hay chưa
- Bà Stella Costa, số bảy hay chín phố Macey ở Secomb.
Ông bưu tá gật đầu.
- Đúng vậy.
- Cám ơn ông Josh, - tôi nói. - Ông đã giúp tôi rất nhiều.
- Tôi quý thằng bé lắm! Nếu Fred có để lại tiền bạc thì tôi sẽ rất mừng nếu thằng bé nhận được nó.
Tôi bắt tay Josh và đi nhanh ra chỗ đỗ xe. Tôi phải nhanh chóng tìm được bà Stella Costa.
***
Paradise City nổi tiếng là thành phố đắt đỏ và xa hoa nhất thế giới. Để giữ được tiếng tăm đó và chiều chuộng những gã tỷ phố sống ở đây, thành phố phải sử dụng cả một đội quân lao động, quét dọn đường phố, phục vụ khách sạn và hộ sĩ. Đội quân khổng lồ đó đóng ở Secomb, cách thành phố hai cây số.
Secomb rất giống West Miami. Đây là một thành phố nhỏ với những ngôi nhà lụp xụp, những khách sạn rẻ tiền, những quán bar và hộp đêm mờ ám.
Phố Macey xuất phát từ đường Seaview, một trung tâm thương mại của thành phố.
Nhà số bảy là một cửa hiệu may nhỏ. Từ ngưỡng cửa, ông chủ người Hoa đã tươi cười mời chào. Tôi đi tiếp. Nhà số chín xem ra có vẻ hứa hẹn hơn. Tôi thấy một cái cửa nhỏ kẹp giữa một hiệu ăn Tàu và một hiệu thuốc. Bên trên cửa có treo tấm bảng “cho thuê phòng”. Tôi bước vào. Ở bên trái có một cánh cửa ghi “văn phòng”. Tôi gõ cửa, mở ra và bước vào một căn phòng nhỏ. Một người da đen ngồi sau chiếc bàn nhỏ đang say sưa đọc báo. Ông ta trạc ngoài bảy mươi, tóc đã bạc trắng.
Ông ta đặt tờ báo thể thao đang đọc dở xuống bàn, nhìn tôi cười nghi vấn và tinh quái.
- Ông nghĩ gì về cuộc đua ngựa ba giờ chiều mai? - Ông ta hỏi.
- Tôi không biết. Tôi không chơi cá ngựa.
- Tôi cũng đã ngờ như vậy. (Ông già gật đầu). Thế anh có tìm thuê phòng không?
- Không. Tôi tìm bà Stella Costa.
Ông ta nhướn hàng lông mày rậm.
- Một người trẻ tuổi ăn mặc lịch sự, không chơi cá ngựa như anh mà lại dây dưa với loại người như Costa sao?
Tôi mỉm cười thân thiện.
- Nếu bà ta muốn thì tự bà ta sẽ cho ông biết.
Ông ta có vẻ suy nghĩ về những điều tôi vừa nói, hết nhấc kính lại đeo vào.
- Bà ta đâu có thèm trả lời tôi.
- Tệ quá nhỉ. Thế phòng bà ấy ở đâu?
- Phòng của Stella ấy à?
- Tôi không có nhiều thời gian đâu. Có thể tìm bà ta ở đâu?
- Chắc chắn là bây giờ không có ở đây. Bà ta đã chuyển đi từ nhiều năm rồi.
Tôi lấy một chiếc ghế và ngồi dạng chân ra hai bên.
- Mà tôi chưa biết tên ông.
- Cứ gọi tôi là Washington. Bố mẹ tôi vốn có óc hài hước mà.
- Vậy thì thưa ngài Washington, ngài có thể cho tôi biết bà ấy hiện sống ở đâu không?
Ông già lấy từ túi ra một chiếc khăn mùi soa rồi lau kính.
- Tôi xin nhắc lại câu hỏi đầu tiên của tôi: Tại sao một người trẻ tuổi, ăn mặc lịch sự, không chơi cá ngựa như anh lại muốn gặp loại người như Costa?
Tôi đã quá quen thuộc những tình huống như thế này. Tôi lấy ví rút ra tờ hai mươi đô và nhìn ông già. Ông ta đeo ngay kính lên, nhìn tờ giấy bạc, rồi nhìn tôi.
- Tôi biết ngay anh bạn trẻ là người thông minh mà.
- Vậy tôi có thể tìm bà Costa ở đâu? - Tôi nhắc lại.
- Một câu hỏi tuyệt vời: Tìm ở đâu? Tôi muốn trước hết phải có cái mà anh đang cầm trong tay đã. Thật lòng tôi không biết bà ta ở đâu. Nhưng tôi có thể kể cho anh một số chuyện về cuộc đời bà ấy. Anh có muốn nghe không?
Tôi đặt tờ giấy bạc xuống trước mặt ông già. Ông xem xét một lúc, rồi cầm nhét luôn vào túi áo.
- Bây giờ ta sẽ nói chuyện công việc, - ông ta mỉm cười nói. - Anh hỏi tôi là bà Costa hiện ở đâu đúng không?
- Đúng, thưa ngài Washington. Ông có thể nói gì về bà ấy?
- Tôi đề nghị anh đừng gọi tôi là ngài Washington nữa. Cứ gọi tôi là Wash như mọi người ở đây vẫn gọi.
- Cũng được thôi. Vậy là bà ta đã sống ở đây và bây giờ đã chuyển nơi khác?
- Đúng thế.
- Bà ta đã sống ở đây bao lâu?
- Khoảng hai mươi năm trước, bà ta tới đây cùng một đứa con trai còn bé tí. Lúc đó bà ta mới mười bảy mười tám tuổi gì đấy. Bà ta thuê của tôi hai căn phòng đẹp nhất và xưng tên là Stella Costa, nhưng tôi có cảm tưởng đó không phải là tên thật.
- Điều gì khiến ông nghĩ như vậy?
- Chủ một ngôi nhà cho thuê buộc phải thận trọng, - ông ta nhìn tôi cười tinh quái. – Khi bà ta ra ngoài, thằng bé khóc tôi có ghé vào xem có chuyện gì với thằng bé. Tôi có chìa khóa vạn năng mà. Thực ra chẳng có chuyện gì nghiêm trọng cả, nhưng tôi thấy một phong bì trong sọt đựng giấy tờ đề gửi cho bà Stella Jackson. Vì vậy tôi nghĩ rằng bà ta đã xưng một cái tên khác.
- Bà ta tự kiếm sống chứ?
- Tất nhiên rồi! Bà ta đẹp lắm. Rất đẹp. Bà ấy biểu diễn thoát y vũ trong nhiều hộp đêm.
- Thế vào những giờ bà ta làm việc, thằng bé thì sao?
- Bà ta toàn làm việc về đêm, nên thằng bé không có vấn đề gì.
- Chuyện này kéo dài khoảng bao lâu?
- Khoảng năm năm. Tiền nhà trả rất nghiêm chỉnh. Hầu như bà ta ngủ suốt ngày. Chẳng chăm lo gì cho thằng bé, vậy mà nó vẫn sống.
- Thằng bé có đi học không?
- Có chứ. Điều này có thể làm cho anh ngạc nhiên. Nhưng ở Secomb này có một trường tốt lắm. Johnny đi học ở đó. Nó là một đứa bé rất ngoan. Có thể hơi ẻo lả một chút, nhưng tôi rất quý nó. Khốn khổ là chuyện xảy ra với mẹ nó!
- Chuyện gì vậy?
- Vì Costa không kiếm được nhiều tiền, bà ta phải đưa cả đàn ông về nhà. Johnny là mối phiền phức của họ. Bà ta phải cho nó lang thang ngoài phố, đợi cho bạn trai của bà ta đi về mới được về. Thằng bé nói với tôi rằng nếu có dịp nó sẽ bỏ đi. Tôi bỏ ngoài tai, xem như chuyện bực bội của trẻ con. Thế rồi năm nó chín tuổi, nó bỏ đi thật. Một ngày sau hôm nó bỏ đi bà Costa hỏi tôi có thấy nó không. Tôi có cho bà ta một bài thuyết giáo ngắn về phận sự của người mẹ, nhưng bà ta không thèm nghe. Bà ta bảo tôi rằng thoát được nó là may, bà ta đã khổ vì nó lắm rồi. (Ông già vuốt mũi và lắc đầu). Bà ấy không có tình mẫu tử.
- Thế bà ấy đi khỏi đây khi nào?
- Khoảng hai năm sau Johnny. Hợp đồng cuối cùng của bà ấy là với Câu lạc bộ Skin.
- Bà ấy có để lại địa chỉ không?
- Trong cái nghề của tôi, người ta không bao giờ lưu tâm đến thư từ vì vậy tôi không hỏi. Cứ trả tiền thuê phòng xong, ai muốn đi đâu thì đi.
- Ông có bao giờ nói chuyện với Johnny về bố của nó không?
- Chỉ có một lần. Tôi chỉ chuyện vãn với nó lúc nó ăn. Nó có nói với tôi rằng bố nó là người lính giỏi và dũng cảm nhất trong quân đội. Hồi đó nó mới bảy tuổi mà. Anh biết chuyện bọn trẻ con rồi đấy. Tôi chẳng bận tâm làm gì, nhưng cảm thấy thương nó. Tôi nghĩ chắc nó là con trai một người lính đã tằng tịu với Stella.
Tôi có cảm giác đã moi hết thông tin từ ông già này. Tôi không biết được thông tin gì nhiều, nhưng vẫn phải tìm Costa.
- Thế Câu lạc bộ Skin ở đâu? - Tôi hỏi và đứng dậy.
- Ở phía đông Secomb Road. Trông coi Câu lạc bộ này là một người Mêhicô, tên Edmundo Raiz. Nếu anh có ý định đến đó thì hãy giữ ví cho thật chặt.
- Cám ơn ông.
Câu lạc bộ Skin đặt dưới một tầng hầm, đây là nơi chuyên dành cho những kẻ bê tha, say khướt và khách du lịch.
Giờ này là vắng khách đối với tất cả các hộp đêm. Đồng hồ của tôi chỉ mười tám giờ năm. Tôi dừng chân xem bức ảnh phóng to của các cô gái thoát y vũ. Đó là nhóm ba cô gái da đen. Rồi tôi đi xuống một gian phòng lớn có nhiều bàn ghế, một quầy bar ở một đầu và một sàn diễn có dàn nhạc ở một đầu khác.
Một ngọn đèn đơn độc treo trên quầy bar và một người đàn ông đang đứng đó xem một tờ giấy. Chắc ông ta đang kiểm tra tổng thu nhập của ngày hôm trước. Người đàn ông này tóc đen với nước da sạm nắng và hàng ria mép mảnh. Trông anh ta nhỏ con, nhưng béo tròn với đôi vai lực lưỡng. Anh ta ngẩng lên nhìn tôi khi tôi đi qua phòng tiến tới chỗ anh ta.
- Quầy bar đóng rồi, - anh ta nói cụt ngủn.
- Tôi không cần uống, - tôi nói. - Tôi là Diek Wallace, làm việc chỗ các ông Benbolt và Howard. Tôi cần một số thông tin.
Vẻ mặt anh ta sáng hẳn lên.
- Thế hả? Thông tin gì?
- Chúng tôi muốn tìm bà Stella Costa. Hình như trước kia bà ta có làm việc ở đây.
- Howard và Benbolt à? - Anh ta nheo mắt hỏi.
- Thì tôi đã nói rồi.
- Anh tìm bà ta làm gì?
- Bà ấy được nhận một khoản thừa kế nhỏ, - tôi nói dối, - và chúng tôi muốn thanh lý tài sản kế thừa.
- Tài sản thừa kế lớn cỡ chừng nào?
- Cũng nhỏ thôi. Đối với ông đó chỉ là món tiêu vặt, ông Raiz ạ. Nhưng chúng tôi muốn thanh lý tài sản đó. Ông có thể cho tôi biết tìm bà ấy ở đâu không?
Đúng lúc đó, một cô gái trẻ từ một buồng cạnh dàn nhạc ở đầu kia của phòng bước ra. Cô đi ngang qua phòng với những bước dài duyên dáng. Tôi phản ứng như một thanh nam châm đặt trước một mẩu sắt. Khoảng hai mốt hai hai, cao hơn tầm vóc trung bình, cô gái có mái tóc đen mượt và dài. Cô mặc một chiếc quần bò bó sát và một chiếc áo phông vừa khít làm nổi rõ bộ ngực căng phồng. Raiz bực tức nhìn cô gái.
- Xéo ngay, Bêbê, - anh ta nói. - Tôi đang bận.
Cô ta tới gần quầy bar và mỉm cười với tôi. Đôi môi cô gái tô đỏ chót vẻ mùi mẫn và hàm răng trắng đều đặn.
- Grosso buộc phải làm dữ, - cô nói. - Hãy tha thứ cho anh ấy.Anh là ai?
- Dirk Wallace.
Nhìn cô gái tôi tự nhủ rằng qua một đêm trên giường với cô ta chắc phải đi cấp cứu chứ không chơi, nhưng cũng bõ lắm.
- Chào Dirk. (Cô ưỡn ngực về phía tôi, nhăn mặt với Raiz rồi vòng qua quầy bar chỉ chai Cutty Sark). Hãy phục vụ tôi và Dirk đi và đừng có cau có như thú dữ thế, Eđy.
- Bêbê Mansel đây là hiện thân của sex. Cô ta ngủ với tất cả ở đây, chỉ trừ có voi thôi, - Raiz giải thích, rồi lấy chai uytski rót ra ba ly. - Đừng có để ý đến cô ta. Trí tuệ của cô ấy chỉ giới hạn trong cặp đùi thôi.
- Đừng có nghe mồm anh ta. (Bêbê cười ré lên). Vì chưa bao giờ sờ được tới đó nên anh ta tức tối đấy mà.
Cô ta nâng cốc và uống cạn một hơi.
- Bây giờ thì xéo đi, - Raiz hạ giọng nói nhưng đầy vẻ hăm dọa. Chúng tôi đang nói chuyện công việc.
- Tôi nghe hết rồi. Anh chàng đẹp trai này muốn biết Stella ở đâu chứ gì. Nói cho anh ấy biết đi, Eđy.
Tất cả diễn ra nhanh tới mức tôi không kịp can thiệp. Với tốc độ của con rắn Côbra, Raiz tát cô gái rất mạnh và xô cô ngã dúi vào hàng chai lọ trên giá. Rồi hắn ta tóm lấy thắt lưng cô gái quẳng qua quầy làm văng cả ly rượu của tôi. Cô gái lồm cồm bò dậy, chạy thục mạng tới cái cửa ở cạnh dàn nhạc, rồi biến mất. Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Raiz nhìn tôi cười.
- Đừng để ý làm gì. Trong cái nghề của tôi phải biết cách xử sự với lũ con gái. Stella Costa hả? Rất thú vị đấy. Bà ấy đã làm việc khá lâu ở chỗ tôi. Đó là một vũ nữ thoát y tuyệt vời. Con bé Bêbê lúc nãy cũng không đến nỗi tồi, nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đấy. Để một cô gái gây được ấn tượng mạnh, cần phải có chút xíu gì nữa cơ.
- Tôi cũng ngờ vậy. Thế có thể tìm bà Stella Costa ở đâu?
- Gượm đã nào. (Raiz nhìn tôi cười khẽ). Howard và Benbolt à? Chắc hai ông này phải lăn trên vàng ấy nhỉ. Tiền thưởng bao nhiêu đây?
- Không có tiền thưởng nào hết, tôi nói trước với ông như vậy. Chúng tôi chỉ muốn thanh lý tài sản thừa kế thôi mà.
- Thế ai để lại cho bà ta số tiền đó?
- Người ta không cho tôi biết. Mà điều đó có ý nghĩa gì. Tôi có thể tìm bà ta ở đâu?
- Tôi không biết. Bà ta đã đi khỏi đây một năm nay rồi. Mà cũng phải thôi, ai cũng chỉ có một thời. (Anh ta uống một hơi và lắc đầu). Dễ chừng bà ta ngoài bốn chục rồi còn gì. Khách hàng của tôi giờ chỉ thích những cô gái trẻ thôi.
- Cô ta cứ thế bỏ đi thôi à?
- Thực ra tôi đã thuyết phục bà ấy. (Anh ta lại cười khẽ).
- Bà ấy có nói đi đâu không?
Anh ta tỏ vẻ khó chịu.
- Tôi cũng không hỏi.
Lại một manh mối nữa tan vỡ, tôi nghĩ.
- Dù sao cũng cám ơn, ông Raiz ạ. Thôi thì bây giờ đành phải đăng thông báo trên báo vậy.
Cái nhìn của Raiz trâng tráo.
- Ai hơi đâu để ý đến một con điếm?
- Bà ta thực sự là vậy sao?
- Anh có cần một bức ảnh không?
- Chúng tôi sẽ cho đăng cùng với thông báo. Sẽ là quảng cáo cho cơ sở của ông đấy. “Stella Costa vũ nữ thoát y và gái điếm đã từng làm việc ở Câu lạc bộ Skin làm ơn liên lạc với…”. (Tôi nhìn Raiz cười). Ông thừa biết tiếp sau như thế nào rồi.
- Đừng có nói đến tên Câu lạc bộ của tôi vào đó, - Raiz nói đầy vẻ bực bội.
- Tại sao lại không. Rất nhiều khách du lịch muốn biết tìm những vũ nữ kiêm gái điếm ở đâu còn gì. Chuyện này tốt cho việc kinh doanh của ông lắm đấy, ông Raiz ạ.
Anh ta ngả người ra phía trước nhìn như nuốt sống tôi.
- Nếu anh nhắc đến cơ sở của tôi, tôi sẽ đưa anh ra tòa.
- Đồng ý thôi. Khi đó tôi sẽ đi hỏi cảnh sát, chắc họ sẽ cho tôi nhiều thông tin hơn ông kia.
- Xéo khỏi đây ngay.
- Bình tĩnh nào, ông Raiz. Chắc ông biết bà ta hiện đang ở đâu. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ không đăng báo và đi hỏi cảnh sát nữa.
Gã lưỡng lự rồi nhún vai.
- Bà ấy chết rồi. Bà ấy say và bị một thằng tập lái xe cán chết.
- Thôi đi ông Raiz, ông có thể bịa hay hơn thế nữa kia. Tôi thừa sức kiểm tra điều ông nói. Hãy động não đi. Nào, Stella ở đâu?
- Hay lắm thằng khốn. Mày muốn thế hả? Tao sẽ cho mày một bài học nhớ đời.
Chắc là hắn có một hệ thống báo động trong quầy. Tôi nghe thấy tiếng chuông ở xa. Rồi chiếc cửa ở cạnh dàn nhạc mở toang và hai thằng nhọ mà tôi gặp hồi nào xuất hiện. Đứa nào cũng lăm lăm con dao trong tay. Từ lần đầu gặp chúng, tôi bao giờ cũng mang theo súng trong người. Khi chúng tới gần, tôi rút phắt súng ra. Đây là một trong số nhiều điều mà cha tôi bắt tôi học và tôi đã thành thạo.
Nhìn thấy khẩu 38 ly trên tay tôi, chúng đứng sững lại như húc phải bức tường bê tông.
- Chào mấy thằng hôi, - tôi nói. - Tao sẽ bắn nát sọ chúng mày. Cứ thử tiến đến gần đây.
Tôi liếc thấy Raiz chìa tay với lấy chai Cutty Sark. Đúng lúc hắn định nện vào tôi, tôi giáng nòng súng đúng vào giữa bộ mặt nhăn nhó của hắn. Hắn đổ sập xuống bên trong quầy. Tôi cười với hai gã da đen vẫn đứng như trời trồng.
- Xéo ngay! - tôi hét. - Nhanh!
Chúng biến mất ngay lập tức và đóng sập cửa lại.
Thận trọng tôi đi giật lùi ra khỏi phòng, leo lên mấy bậc thang, rồi chuồn ra đường phố đầy người.
Bêbê đã đợi tôi ở ngoài, vẫn với chiếc quần bò và chiếc áo phông bó chặt cứng. Cô ta mỉm cười và khoác lấy tay tôi.
- Đưa em về nhà nhé, cưng. Ta sẽ tha hồ mà chuyện vãn.
- Chương 11:
- Ta đi đâu bây giờ, - tôi nói khi chúng tôi ngồi vào xe.
- Cứ đi thẳng. Đến chỗ đèn đỏ quẹo trái. Tới ngã tư đầu tiên quẹo trái nữa. (Cô ta sờ tay lên má). Thằng khốn ấy tát em đau quá.
- Nhưng anh cũng nện cho hắn một trận ra trò rồi, - tôi nói và cho xe nổ máy.
- Khá lắm! Cho nó chết.
Tôi cho xe chạy tới chỗ đèn hiệu, quẹo trái, giảm tốc ở ngã tư đầu tiên, rồi quẹo trái nữa.
- Đến cái nhà ổ chuột kia quẹo phải, - Bêbê chỉ dẫn.
Thật may là tôi tìm được chỗ đậu xe trước ngôi nhà nhỏ bốn tầng.
- Đây hả?
- Vâng. Cái ổ khốn khổ của em đây rồi.
Cô gái xuống xe, bước lên bậc thang dẫn tới cửa nhà đã tróc sơn. Cô mở cửa và bước vào một hành lang tối mò. Tôi bám theo sát gót cô.
Chúng tôi bước vào một căn buồng nhỏ chỉ có một cái giường gấp, một chiếc tủ treo quần áo, một chiếc bàn nhỏ và một chiếc ghế. Ở bên trái, một cánh cửa mở vào nhà vệ sinh và buồng tắm.
Tôi khép cửa và đứng nhìn xung quanh.
- Em sống ở đây à?
- Chỉ là chỗ để ngủ thôi. (Cô ta nhún vai). Phần lớn thời gian là ở các hộp đêm. Ngồi xuống đi, cưng. (Cô ta chỉ cho tôi một chiếc ghế). Chiếc giường chắc không chịu nổi sức nặng của anh em mình đâu. Vậy chớ có mà suy nghĩ lung tung đấy nhé.
Tôi ngồi dạng chân ra hai bên và nhìn cô gái.
- Anh tìm Stella để làm gì? - Cô ta hỏi.
- Thực ra không phải là tìm bà ta. Người tôi muốn tìm là Johnny Jackson mà theo tôi nghĩ là con bà ấy.
- Thế điều gì khiến anh nghĩ là Stella có con trai?
- Không đúng vậy sao?
Cô gái cười gượng.
- Thế tại sao anh muốn tìm Johnny?
- Ông nội nó có để lại cho nó một trang trại nuôi ếch. Có ai đó muốn mua lại, nhưng không thể bán nếu không có sự ủy quyền của Johnny.
- Có đắt không?
- Cũng không nhiều tiền lắm. Nếu như anh tìm được Stella, rồi lần ra Johnny, anh sẽ được nghỉ ngơi và quên câu chuyện vớ vẩn này đi. Em có biết tìm bà ta ở đâu không?
Cô gái xoa tay trên má. Một cái u nhỏ đã xuất hiện ở đó.
- Em hận Eđy lắm. Em sẽ bỏ đi thôi. Anh có thể cho em một trăm đô không? Em cần phải trả tiền hủy hợp đồng.
- Anh cho em một trăm đô vì việc gì mới được chứ?
- Em có thể kể cho anh về Stella và Johnny.
Tôi lấy ví , rút tờ hai mươi đô và đưa cho cô.
- Sao lại thế này? - Cô hỏi nhưng vẫn cầm tiền.
- Nào, cưng, kể đi. Phần còn lại anh sẽ đưa nếu em cho anh biết những điều anh cần.
- Stella chết vì tiêm ma túy quá liều. Bà ta xài hêrôin từ nhiều tháng nay. Vì thế Eđy tống bà ta ra khỏi cửa.
- Eđy nói rằng bà ta bị xe cán chết kia mà.
- Xạo. Hắn rất thận trọng đối với tất cả những gì có liên quan tới ma túy.
- Thế hắn cung cấp ma túy cho Stella à?
- Em không nói thế đâu nhé. (Cái nhìn của cô ta trở nên băng giá). Stella đã chết rồi.
- Em có quen bà ta không?
- Quen quá đi chứ. Chính bà ấy dạy cho em nghề thoát y mà.Bây giờ em thay chỗ bà ấy.
- Bà ấy có nói với em rằng Johnny là con bà ấy không?
- Có.
- Bà ấy có nói ai là cha đứa bé không?
- Hai mươi đô để trả lời câu này. (Tôi đưa tiền). Bà ấy nói rằng cha nó là một người lính ở Việt Nam.
- Họ có cưới nhau không?
Cô gái nhăn mặt.
- Thời buổi này ai muốn cưới xin gì.
- Bà ta có hay nói về đứa con không?
- Không thường xuyên lắm. Khi có chuyện bực mình thì bà ấy hay kể.
- Thế bà ấy kể gì?
- Rằng nó bỏ trốn từ lúc còn bé và bà ta hài lòng về điều đó.
- Bà ấy có nói tại sao không?
- Vì nó làm phiền bà ấy. Bà ấy có những người bạn, họ không muốn lúc nào cũng có thằng bé bên cạnh. Chuyện đó cũng bình thường thôi.
- Bà ấy có biết nó đi đâu không?
- Hơi đâu bận tâm chuyện đó.Nó đi, thế là xong.
- Em đã gặp Johnny bao giờ chưa?
Bêbê cười và nhìn tôi tinh quái.
- Đừng có mất thời gian hỏi em chuyện đó. Muốn để em nói thì đây là vấn đề sáu mươi đô.
Trực giác mách bảo tôi rằng tôi sắp phát hiện ra một đầu mối quý giá. Tôi lục cái ví lép kẹp lấy ra tờ năm mươi đô và đưa cô gái.
- Anh nhắc lại câu hỏi: Em đã bao giờ gặp Johnny chưa?
- Cách đây hai tháng. Một ngày trước khi Stella chết.
- Thôi nào, cưng. Kể tiếp đi, - tôi sốt ruột giục.
- Stella và em hôm đó đều ở hộp đêm. Chỉ có hai đứa em. Đúng vào giờ vắng khách. Bỗng có hai gã xuất hiện ở cửa. Loại pêđê mà em thường gặp. Nhưng hai gã này có vẻ hơi khác thường. Một thằng nhọ bẩn thỉu, nhưng thằng kia lại dễ thương: đẹp trai, tóc vàng, có cả dây chuyền và lắc taỵ Gã da đen đứng ở cửa. Cậu đẹp trai đi vào. Em rất ghét pêđê, nó làm hỏng cả cái nghề của bọn em. Thằng nhỏ tiến tới gần bàn bọn em và đứng sững trước mặt Stella. Stella ngồi im như bức tượng. Bà ta mặt trắng nhợt như tàu lá và thở rất nặng nhọc. “Chào mẹ". - Thằng cô hồn nói bằng giọng chua loét. – Con đang cần tiền. Mẹ có thể cho con năm mươi đô chứ?”. Stella vẫn ngồi đó, bất động nhìn nó. Em bèn hét nó xéo đi. Lúc đó Stella mới lên tiếng: Trời ơi, Johnny, tại sao con lại ra nông nỗi này? Nó cười: Thôi đi, sao lại ra nông nỗi này? - Nó đay lại. - Đưa cho con năm mươi đô đây. Con không còn một xu dính túi. Stella bật khóc. Thằng khốn cầm lấy sắc mẹ nó và đúng lúc nó đang mở sắc em hất ngay vào mặt nó chai côca đang uống dở. Nó lùi lại hét lên: Làm bẩn hết quần áo người ta rồi. Ngay lập tức gã đen bước vào phòng. Em nghĩ hắn sẽ giết chết em, nhưng hắn chỉ cầm tay Johnny dắt ra ngoài. Stella dàn dụa nước mắt. Đó là lần cuối cùng em nhìn thấy bà ấy còn sống. Bà ấy đã tiêm một lúc ba liều.
Các mẩu ghép hình đã bắt đầu ăn khớp với nhau. Johnny là một tên đồng tính luyến ái. Điều này giải thích vì sao ở trường hắn lại lảng tránh bọn con gái và mọi người đều nói hắn là một thằng bé ngoan nhưng hơi ẻo lả. Tôi có linh cảm là đã đạt được một điều gì đó.
- Em có biết tìm nó ở đâu không?
- Không. Em chẳng biết gì hết và cũng cóc cần biết. Nghe đây, cưng. Em phải đi đây. Anh có thể cho em vài chục đô nữa không?
- Em đi đâu?
- Em cũng không biết nữa. Em đã ngán cái câu lạc bộ Skin lắm rồi. (Cô ta chằm chằm nhìn tôi). Anh có thể tưởng tượng con gái như em mà có nguy cơ bị chết đói không?
- Chắc là em phải đi đâu đó chứ?
- Có thể là New York. Ở đó chả thiếu gì việc. Nhưng lúc này em biết là phải thoát khỏi Eđy. Chuyện đôla thế nào?
- Này, cưng. Với một trăm đô em không thể đi xa được đâu. New York cách đây biết bao là cây số.
Cô gái chìa tay ra.
- Mười đô vậy, được không?
- Hãy cho anh biết về Eđy Raiz đi.
- Anh điên à? Em không thể nói về thằng thối tha đó. Em đã nói với anh rằng em đã gặp Johnny. Thế là đủ rồi.
- Eđy là tên buôn bán ma túy. Em không cần phải nói thì điều ấy cũng đã rõ như ban ngày.
Cô gái đứng dậy, đi ngang qua phòng ra mở cửa.
- Vứt mẹ nó cái mười đô của anh đi. Anh hãy đi đi.
Tôi nhìn cô gái và cảm thấy thương hại cô. Cô gái tuyệt diệu này đã phải vật lộn để kiếm sống như bao cô gái khác ở tuổi cô. Có chăng là vẻ đẹp của cơ thể họ và sự dễ dàng chấp nhận lên giường với ai đó. Không bao giờ họ nghĩ rằng rồi năm tháng sẽ qua, họ sẽ trở nên tàn tạ không còn cần cho ai nữa. Hiện thời, với sự tự tin mà sắc đẹp đem lại, cô không hề nghĩ rằng, rồi một ngày nào đó, một cô gái khác trẻ hơn, vì mưu sinh, sẽ đẩy cô xuống cuối hàng chờ dành cho những kẻ mạt hạng, những tên say khướt, những kẻ chỉ cần ôm ấp cái gọi là đàn bà.
- Khoan đã, cưng, - tôi nói. Hãy suy nghĩ một chút đi. Rồi em sẽ lại nghiện hút như Stella thôi. Em có thể làm gì ngoài nghề thoát y vũ không?
- Thôi cái trò đạo đức giả ấy đi. Nếu có một điều tôi có thể làm, đó là tổ chức cuộc sống của tôi. Anh hãy xéo đi.
Tôi bỏ đi với ý nghĩ buồn bã rằng không một lời nào của tôi có thể thuyết phục được cô.
Khi đi dọc theo hành lang tối om, tôi nghe tiếng cửa phòng cô đóng sập lại.
***
Tôi ngồi vào xe, chạy dọc theo phố. Khi quẹo phải, tôi phát hiện thấy một chiếc xe từ một chỗ kín lao ra. Tôi đạp phanh vừa lúc một chiếc xe khác lao tới. Người lái xe nhìn tôi như muốn nuốt sống, rồi phóng đi. Tôi khóa xe và nhanh chóng quay lại phố của Bêbê. Len lỏi qua dòng người chen chúc, cuối cùng tôi cũng tìm được một cái cửa khuất trong bóng tối, từ đó nhìn rõ cửa ngôi nhà của Bêbê. Tôi rất quan tâm tới cô và muốn biết cô sẽ đi đâu.
Đợi khoảng mươi phút, cửa sau lưng tôi chợt mở ra và tôi quay phắt lại.
Một gã da đen cao lớn đi ra trước mặt tôi. Xộc vào mũi tôi mùi nước hoa rẻ tiền. Đi được mấy bước, gã dừng lại chằm chằm nhìn tôi với đôi mắt đầy vẻ hăm dọa.
- Anh cần gì, anh bạn trắng? – Hắn hỏi.
- Nếu cần gì, người tôi hỏi không phải là anh, anh đen ạ, - tôi đáp.
Hắn gồng mình làm bật cả cúc áo.
- Xéo ngay khỏi đây, - hắn gầm gừ.
Tôi cởi cúc giữa của áo vest và hơi hé cho hắn thấy khẩu 38 ly nằm trong bao.
Gã đen nhìn dán vào khẩu súng, rồi nhìn tôi mỉm cười.
- Sao ông không nói trước, ông chủ? - Gã nhăn nhở.
Rồi hắn rảo bước rẽ đường giữa đám đông như một chiếc xe ủi gạt những khối đất lớn.
Tôi cài lại cúc áo và tiếp tục canh chừng.
Khoảng hai mươi phút sau, tôi đã hết kiên nhẫn, thì nhìn thấy Bêbê đi ra, mắt liếc ngang liếc dọc, rồi đi xuống phố. Tôi đã nghĩ cô mang theo vali, nhưng chỉ có chiếc sắc đeo vai. Tôi để cho cô đi trước rồi bám theo sau. Trông cô không có vẻ gì là người sắp rời khỏi thành phố.
Tôi len lỏi trong đám đông, khó lắm mới bám sát được cô. Đột nhiên cô rẽ phải và tôi mất dạng cô một lúc. Tôi xô cả một đám người đang mải mê tranh luận, rồi vòng qua một góc phố đúng lúc thấy cô ta ở cuối phố. Cô sắp sửa ngồi vào chiếc TR 7. Chiếc xe khiến tôi ngạc nhiên. Nó gần như còn mới, bóng loáng, màu xanh nhạt. Vì ở khá gần nên tôi nhìn rõ số đăng ký của chiếc xe trước khi nó chạy hết tốc lực vòng qua góc phố và biến mất.
Tôi ghi biển số xe vào sổ rồi quay lại ngôi nhà của Bêbê. Tôi mở cửa, bước vào hành lang tối om dẫn tới phòng cô. Tôi nghĩ rằng cửa khóa, nhưng chỉ quay nắm cửa, nó đã nhẹ nhàng mở ra.
Tôi lục soát khoảng năm phút nhưng không phát hiện thấy gì. Chiếc tủ quần áo rỗng không. Phòng tắm có ba con gián lớn đang nô giỡn, chắc hàng tháng nay không sử dụng tới. Tôi kết luận rằng Bêbê xạo tôi. Cô ta không sống trong cái phòng dơ bẩn này.
Tôi trở về văn phòng và tới gặp Charles Edward, thằng cha kế toán rất chi li trong việc tính tiền chi phí cho tất cả nhân viên của hãng. Sau một hồi tranh cãi gay gắt, tôi đã nhét đầy ví với lời hứa hẹn sẽ có báo cáo chi tiết về việc chi tiêu.
Chick Barley đi vắng. Tôi đóng cửa phòng và gọi điện cho viên sĩ quan chuyên quản lý về ôtô của Sở cảnh sát thành phố. Tôi đã từng có quan hệ với anh ta, vả lại hãng luôn sẵn lòng giúp đỡ cảnh sát nên họ cũng rất nhiệt tình đáp lại.
- Lew hả? - Tôi nói. - Mình cần biết chủ chiếc xe có biển đăng ký PC 400 008.
- Đợi mình một lát.
Trong khi ngồi đợi tôi lấy bút vẽ bậy bạ và nghĩ tới Bêbê. Tại sao cô ta lại đưa tôi đến căn phòng bẩn thỉu ấy nhỉ? Có đúng là cô ta định bỏ câu lạc bộ Skin không? Làm sao cô ta có thể là chủ nhân của chiếc xe thể thao đắt tiền như thế mà lại móc của tôi vài chục đôla. Có lẽ chiếc xe không phải của cô ta. Hay là nó bị đánh cắp?
- Dirk hả? - Viên sĩ quan cảnh sát hỏi. - Chiếc xe này thuộc bà Phyllis Stobart. Địa chỉ: 48 Đại lộ Broadhurst, Paradise City.
- Cám ơn Lew. - Tôi nói và gác máy.
Tôi lấy máy chữ và kê chi tiết các khoản chi tiêu để gửi cho Edward. Tôi hy vọng với bản tường trình này anh ta sẽ thỏa mãn.
Cửa phòng chợt mở và Chick bước vào.
- Cậu vẫn ở đây à? Mình có mấy thứ cho cậu đây. (Anh ta mở ngăn kéo và lấy ra một bản báo cáo ngắn). Không có gì cho thấy Mitch đã lấy vợ. Nhưng Johnny Jackson, con anh ta, thì được Stella Jackson lập giấy khai sinh ở tòa thị chính. Có thể đây là vợ anh ta, nhưng ít có khả năng.
Anh chìa cho tôi bản sao giấy khai sinh. Nhưng những điều này thì tôi cũng đã biết. Cha: Mitch Jackson. Mẹ: Stella Jackson. Nơi ở: 22 Grove Lane, Miami.
- Cám ơn Chick nhiều. Mà này, cậu có quen đại úy Harry Weatherspoon ở Phòng chống ma túy không?
- Cậu vẫn đào bới chuyện ma túy ấy à?
- Cậu có biết anh ta không?
- Mình có gặp một lần, nhưng mình không thích anh ta lắm.
- Tại sao?
- Có thể mình ghen tị. Hắn sống phong lưu lắm. Nghe đâu là con trai của một gia đình giàu có. Nhưng hắn thì chẳng nói lên điều gì với mình.
- Nghe đây, Chick. Cậu có muốn giúp mình một việc không? Mình phải trở lại Searle. Mình muốn biết gốc gác của bà Phyllis Stobart, 48 Đại lộ Broadhurst.
Chick há hốc mồm.
- Bà ta thì quan hệ gì với Johnny Jackson?
- Mình không biết. Có thể là không, nhưng mình muốn biết vậy thôi.
- Terry hiện không làm việc gì, mình sẽ nhờ cậu ta giúp cậu. Nhưng đào sâu tới mức nào?
- Tới chừng nào có thể được.
- Tất nhiên rồi.
- Mình sẽ gọi điện cho cậu từ Searle.về nhà cậu, lúc chín giờ.
- Chín giờ, không được. Lúc đó mình hy vọng còn đang giúp một cô bé nào đó cởi quần áo. Cậu cứ gọi cho Terry. Nó còn quá trẻ chắc chưa có bồ mà hẹn hò đâu.
- Thôi được, mình sẽ gọi cho cậu ấy.
Ra khỏi văn phòng, tôi tới đặt bản tường trình chi tiêu lên bàn Edward, lúc đó đang bận nói chuyện điện thoại. Tôi ra ôtô và trở lại Searle.
***
Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog thì chuông đồng hồ nhà thờ điểm bảy giờ rưỡi tối. Tôi đi qua tiền sảnh vào nhà ăn, ở đó chỉ có đám thương khách vừa ăn vừa bàn việc.
Abraham - người da đen quản lý nhà ăn - cười rất tươi đón tôi.
- Chào anh Wallace, - ông nói khi tôi đã ngồi. - Tôi xin được giới thiệu món bít tết tẩm dầu.
- Được lắm. Và cho tôi thêm một ly uytski có đá. Ông có biết Peggy đâu không?
- Peggy không được khỏe. (Ông buồn rầu nói). Cô ấy nghỉ trên lầu.
Rồi ông đi vào bếp. Tôi ngả người vào ghế, châm thuốc hút.
Mười phút sau, Abraham từ bếp nặng nhọc đi ra với khay thức ăn trên taỵ Ông đặt thức ăn và đồ uống trước mặt tôi.
- Anh thấy thế nào, Wallace?
- Trông có vẻ ngon lắm.
Bất chợt ông thay đổi nét mặt và có vẻ hoảng sợ. Tôi quay lại. Weatherspoon đang đứng ở ngưỡng cửa. Chúng tôi nhìn nhau, rồi tôi mỉm cườivà giơ tay chào. Ông ta lưỡng lự tiến lại bàn tôi.
- Chào ông Weatherspoon! - tôi nói, - tôi mời ông bữa tối nay, được chứ?
- Cám ơn, tôi đã ăn rồi. Ông ta nói và chằm chằm nhìn Abraham, người đang đứng cúi đầu chào ông ta, rồi lê chân đi vào.
- Thế ông uống một ly cà phê nhé. Tôi muốn nói với ông mấy lời.
Ông ta vẫn có vẻ lưỡng lự, rồi kéo ghế ngồi trước mặt tôi.
- Chương 12:
Abraham quay trở lại.
- Một cà phê và một cô nhắc, - Weatherspoon nói cụt lủn.
- Nhà bếp ở đây nấu ăn khá lắm, - tôi nói. - Hình như ông định mua khách sạn này khi ông Wyatt qua đời?
- Tôi vẫn còn chưa quyết định.
Abraham mang cà phê và cô nhắc tới.
- Cứ tính tiền thanh toán cho tôi, ông Abraham ạ. – Tôi nói.
Ông già gật đầu rồi lui ra.
Tôi tiếp tục ăn và Weatherspoon nhấm nháp ly cô nhắc.
- Công việc điều tra của anh phát triển tốt chứ? - Đột nhiên ông ta hỏi.
- Cũng tà tà vậy thôi. Tôi đã gặp đại tá Jefferson Haverford.
Tôi đột ngột ngẩng mặt lên và nhìn ông ta. Ông ta chớp mắt, nhưng vẻ mặt không thể hiện gì.
- Đại tá có khỏe không? - Ông ta hỏi.
- Ông đã nói dối tôi khéo lắm, ông Weatherspoon ạ. Ông nói rằng ông không biết Mitch Jackson.
- Thì ông có nói thật với tôi đâu. (Weatherspoon mềm hẳn). Thôi thế là hòa.
- Đúng vậy, - tôi mỉm cười. - Đại tá Haverford có nói với tôi rằng ông có đầy đủ bằng chứng về việc Mitch bán ma túy và ông cũng đã có lệnh bắt anh ta.
- Đúng thế. Tôi đang định bắt thì Jackson lại có một hành động anh hùng. Tôi báo cáo việc này với đại tá Haverford và ông quyết định cho qua. Chúng tôi đã giữ bí mật này suốt bao nhiêu năm, thế mà bây giờ anh lại bới tung ra.
- Nhiệm vụ của tôi là tìm con trai của Jackson. Nếu có thể đạt được mục đích mà không phải lần lại quá khứ của anh ta, thì tôi cũng chẳng đào bới làm gì.
Weatherspoon nhìn tôi và gật đầu.
- Có Chúa mới biết thằng bé hiện giờ ở đâu.
- Công chứng viên của ông đã cho đăng báo tìm kiếm thằng bé. Có thể điều đó có kết quả cũng nên.
- Tôi nghe nói là anh đã tới gặp ông ta.
- Tôi đã gặp cả đống người. Một cuộc điều tra như thế này đòi hỏi mất nhiều thời gian và gặp nhiều người.
Ông ta uống cạn ly cà phê và chuyển sang nhấm nháp ly cô nhắc.
- Để tìm thằng bé mà phải tốn nhiều công sức nhỉ.
- Tôi được trả tiền để làm việc đó mà. Xét cho cùng, ông quan tâm tới điều đó làm gì, phải không ông Weatherspoon?
- Bây giờ thì không. Tôi đã có ý định mua trang trại đó, nhưng giờ tôi thay đổi ý kiến. Tôi đã nói điều này với Benbolt. Tôi không muốn làm phức tạp thêm cuộc sống và lại tốn kém nữa.
- Thế có nghĩa là ông không quan tâm tới việc tìm Johnny nữa?
- Đúng thế. (Ông ta đứng dậy). Đã đến lúc tôi phải đi rồi.
- Gượm đã. Mitch Jackson chắc đã hốt nhiều tiền nhờ buôn bán ma túy. Ai cung cấp cho anh ta vậy?
- Làm sao tôi biết được. (Khuôn mặt ông trở nên lạnh như đá).
- Thế làm sao ông vạch mặt được anh ta. Làm sao ông có được lệnh bắt anh ta?
- Tôi không thảo luận công việc của quân đội với một người dân sự, - ông ta lạnh nhạt nói. - Chào anh.
Ông ta bước ra tiền sảnh và đi khuất.
Tôi ra hiệu cho Abraham mang cà phê tới. Tôi uống chậm rãi và suy nghĩ. Rồi tôi để lại tiền boa cho Abraham và đi ra cabin điện thoại ở tiền sảnh.
Bob Wyatt ngủ gật ở quầy tiếp tân. Ông ta chớp mắt khi nhìn thấy tôi. Tôi mỉm cười và khép cửa cabin lại. Tôi quay số của Chick đã cho. Terry ÓBrien trả lời ngay lập tức, cứ như anh ta ngồi chờ sẵn cú điện thoại của tôi.
Terry ÓBrien là một trong những tay học việc trẻ của đại tá Parnell.
- Terry hả. Wallace đây. Cậu đã tìm được gì chưa?
- Chào Dirk. Phyllis Stobart, đúng vậy không?
- Đúng, - tôi nói. - Cậu đã tìm được chưa?
- Mình bỏ ra hai giờ đào bới trong lưu trữ của tờ Herald. Fan đã giúp mình rất nhiều, nhưng không thấy được gì đáng kể.
Fanny Batley là cô nhân viên da đen chuyên trực đêm các kho lưu trữ của tờ Paradise City Herald. Cô ta lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Khi các thám tử của Parnell cần biết ai đó trong thành phố, họ đều tự động nhờ đến cô.
- Thế cậu tìm được gì rồi?
- Phyllis Stobart là vợ của Herbert Stobart. Bà ta trạc ngoài bốn mươi, còn ông ta khoảng bốn nhăm bốn sáu. Ông ta mua một vila rất xịn ở đại lộ Broadhurst, trị giá cỡ nửa triệu đô. Hình như ông ta làm xuất nhập khẩu gì đó ở Viễn Đông, đâu như Sài Gòn thì phải. Ông ta đã bán toàn bộ sản nghiệp trước khi Sài Gòn thất thủ và ôm về cả đống tiền. Ở đây họ chỉ giao du với những kẻ giàu có xuất thân từ tầng lớp dưới. Ngôi nhà của họ rất đẹp. Ba ôtô: Một chiếc Rolls và một chiếc Jaguar cho ông chồng và chiếc TR 7 cho bà vợ. Bốn người hầu. Tay chồng không làm gì hết, chỉ có chơi golf và đánh bài poker. Còn vợ thì đánh bridge. Những điều đó có nói với cậu điều gì không?
- Hiện tại thế là tuyệt rồi. Nhưng mình muốn thông tin chi tiết hơn về người đàn bà đó. Mình cũng muốn biết bà ta từ đâu tới và họ có con không?
Terry khẽ rên rỉ.
- Thôi được, mai mình sẽ lo vụ đó.
Tôi gác máy,bước ra khỏi cabin và thấy Bob Wyatt mặt đang lơ đãng nhìn đi đâu, tôi tiến lại gần.
- Peggy ốm ra sao, ông Wyatt? - Tôi hỏi.
Ông nhìn tôi.
- Nó đang nằm viện.
- Rất tiếc phải nghe tin buồn này. Thế có nghiêm trọng lắm không?
- Nó có vấn đề. (Ông ta nhún vai). Chuyện làm ăn đang khấm khá, nhưng tôi không thể tiếp tục được nữa. Chỉ mong sao Peggy không chết đói. Ông Weatherspoon có ý định sẽ hiện đại hóa khách sạn này. Ông ta sẽ đuổi hết nhân viên ở đây, chỉ trừ có bà đầu bếp. Xét cho cùng, đời là thế mà.
- Xem ra ông Weatherspoon mua đủ thứ ở Searle này nhỉ, - tôi nhận xét.
Ông ta gật đầu và đưa chìa khóa cho tôi.
- Anh đi ngủ chưa, Wallace?
Tôi cầm chìa khóa, mỉm cười và đi ra thang máy.
Tôi ngồi suy nghĩ về những điều diễn ra trong ngày và những điều Terry cho biết. Rồi khi thấy công việc chưa đâu vào đâu, tôi bèn đi tắm, rồi lên giường ngủ.
***
Wally Watkins đang ngồi tỉa những bông hoa tàn trong những chậu hồng đặt dọc hai bên con đường nhỏ dẫn vào nhà. Nhìn thấy xe tôi, ông đứng dậy và ra tận cổng đón.
Vẫn rất nghiêm chỉnh trong bộ vest trắng, đầu đội chiếc mũ rộng vành.
- Tôi vẫn cứ tự hỏi khi nào tôi mới có cơ may gặp lại anh, - ông nói. - Một chút cà phê nhé.
- Không, cám ơn bác. Cháu vừa ăn sáng xong. (Lúc đó khoảng mười giờ năm). Cái gối của bác thế nào rồi.
- Lúc đỡ lúc không. Những khi đỡ tôi tranh thủ làm vườn chốc lát.
Tôi dừng lại ngắm nghía những bông hồng.
- Chưa bao giờ cháu thấy những bông hồng đẹp như thế này.
- Anh biết đấy, đó là do tôi hay trò chuyện với chúng. (Ông cười). Hoa nó cũng hiểu người đấy.
Chúng tôi ngồi trong hai chiếc ghế phô-tơi đu đưa trong bóng râm. Ông châm tẩu và tôi châm thuốc lá.
- Này, anh bạn trẻ. Anh đã tìm thấy Johnny chưa? - Ông hỏi.
- Một thời gian nữa cháu nhất định sẽ tìm ra. Này, bác Watkins, cháu tới đây quấy rầy bác vì cháu rất cần nói chuyện với con trai bác.
Mặt ông già hơi sầm lại.
- Nó thì có liên quan gì tới vụ này? - Ông hỏi.
- Cháu không biết. Cháu như người đi câu ấy mà. Cứ thả mồi xuống nước và hy vọng giật được con gì đó. Bác có tin gì từ anh ấy không?
- Chẳng có tin tức gì, từ khi nó nhập ngũ. Chục năm rồi còn gì và nói thực lòng, tôi cũng chẳng muốn gặp nó nữa. Nó đã gây cho vợ chồng tôi bao nhiêu phiền muộn. Không có nó và những hành vi tồi tệ của nó thì Kitty có lẽ chưa rời cõi đời này.
- Theo như cháu nghe nói thì Mitch là bạn rất thân với con của bác.
- Đúng là hai thằng khốn. Tôi nghĩ là thằng Syd nhà này đã lôi kéo Mitch. Syd là thằng thông minh. Tôi không nhầm đâu. Nó là đứa có đầu óc. Nhưng tính nết thì quá ư tồi tệ. (Ông bỏ tẩu xuống và lắc đầu). Cả Kitty lẫn tôi không bao giờ hiểu được tại sao lại như vậy. Chúng tôi đã hết lòng yêu thương nó. Nhưng nó xấu xa từ trong xương tủy. Ngay từ lúc bốn tuổi, nó đã ăn cắp ở cửa hiệu của tôi. Mà nó có thiếu thứ gì đâu, nhưng nó cứ thích ăn cắp hơn. Sau này, nó ăn cắp cả từ két của tôi. Tôi bắt tại chỗ và đánh một trận ra trò, nhưng tật đâu vẫn hoàn đấy. Sau đó nó và Mitch phóng môtô của Mitch tới Paradise City. Và chúng đi ăn cắp ở đó. Tôi biết được là nhờ theo dõi nó và biết được tiền mua thuốc lá và quần áo của nó là từ một nguồn khác. Và mọi chuyện cứ thế tiếp diễn. Kitty buồn vì nó mà qua đời.
- Thật là tồi tệ, - tôi nói. Hồi ở Việt Nam Syd có viết thư cho bác không?
- Nó chỉ gửi cho Kitty một cái bưu ảnh báo rằng nó đã tới nơi. Sau đó thì bặt vô âm tín.
- Bác có giữ chiếc ảnh nào của Syd không?
- Ảnh ấy à? Có. Bây giờ tôi mới nhớ ra. Nó có gửi cho tôi một bức ảnh trước khi xuống tàu. Anh có muốn xem không?
- Nếu không quá làm phiền bác, tôi mỉm cười đáp.
Ông già ngẫm nghĩ một lát rồi khó nhọc đứng dậy.
- Ta vào nhà đi, tôi sẽ lấy cho anh xem.
Chúng tôi đi vào căn phòng ngủ hết sức ngăn nắp của ông già. Rồi ông tới lục tìm trong một chiếc ngăn kéo trong khi tôi đứng nhìn ngôi vườn qua cửa sổ. Có một bãi cỏ được cắt tỉa công phu và những bụi hồng. Nhưng đây là những bông hồng có sắc đỏ như máu, bán rất đắt ở các cửa hàng hoa.
Tôi liếc nhìn căn phòng. Có một cái máy đánh chữ xách tay đặt trên cái bàn nhỏ.
- Bác còn đánh máy nữa kia à, bác Watkins?
- Chữ tôi xấu lắm. Đôi khi vẫn phải liên lạc. (Ông đứng thẳng dậy và đưa tôi một phong bì). Đây là ảnh của Syd.
Tôi lấy ra bức ảnh được in trên giấy bóng. Trong ảnh là một thanh niên mặc bộ quần áo nhiệt đới.
Thì ra đây là Syd Watkins: vai hẹp, tóc đen, hai mắt sát nhau, cái miệng gần như không có môi, mũi ngắn tẹt và một vết sẹo chạy từ mắt phải tới hàm. Đúng là chân dung của một gã du đãng.
- Tôi không bao giờ xem bức ảnh này, - ông nói và lùi ra xa. – Trông diện mạo nó chẳng khác gì ngoài đời. Thật không thể chịu nổi.
- Sao lại có vết sẹo trên mặt Syd hả bác?
- Từ năm nó mười lăm tuổi kia. Chắc nó đánh nhau bằng dao. Tôi cũng chẳng buồn hỏi. Chúng tôi vừa đau lòng vừa sợ tới mức chẳng hỏi tại sao nữa. Chúng tôi biết có hỏi cũng vô ích, tốn thời gian.
- Gần đây bác có gặp Johnny không? - Tôi đột ngột hỏi.
Wally co rúm người lại và nhìn tôi.
- Anh nói sao?
- Cháu hỏi bác từ hôm ông Jackson mất đến giờ bác có gặp Johnny không?
Ông già quay mặt đi.
- Tại sao anh lại hỏi thế?
- Có ai đó đặt những bông hoa hồng đỏ ở vườn bác trên mộ Jackson và đánh máy dòng chữ “Cầu cho ông nội từ nay yên giấc ngàn thu Johnny”. Dòng chữ đó có thể đánh từ máy đánh chữ của bác cũng nên. Johnny gọi điện nhờ bác hay anh ta đến đây?
Ông quờ tay tìm cái tẩu và lảng không nhìn tôi.
- Giả thuyết của anh ranh ma lắm, Wallace ạ, nhưng anh lầm rồi. Chính tôi làm việc đó. Ông già Fred và tôi vốn là bạn thân mà. Tôi hoàn toàn không hài lòng để người ta mai táng ông mà không có hoa. Tôi cắt hoa trong vườn và gõ dòng chữ đó. Đó là điều Johnny sẽ làm nếu nó có ở đây. (Ông gượng cười).
Tôi nhìn Wally. Ông già tốt bụng đâu có biết nói dối. Ông đã cố che giấu nhưng tôi thừa biết là ông nói dối.
- Ý nghĩ của bác thật cảm động, - tôi nói. - Thế bác không gặp Johnny và cũng không có tin tức từ khi nó bỏ đi ạ?
Ông lưỡng lự.
- Không.
Tôi biết chắc ông già nói dối.
- Cám ơn bác Watkins. Có thể cháu còn quay lại phiền bác.
Tôi chia tay ông già. Rồi tôi lên xe quay về Searle. Tôi châm thuốc và suy nghĩ về bản báo cáo gửi cho đại tá Parnell khi ông trở về từ Washington. Không còn nhiều thời gian nữa. Tôi gần như chắc chắn rằng khi đọc báo cáo của tôi, ông sẽ cho dừng vụ này.
Trước hết, về mặt tiền bạc, sẽ chẳng kiếm thêm được gì ở vụ này. Hai nữa, báo cáo của tôi phanh phui chuyện người ta che đậy cái chết của Mitch bằng chiếc lá nho. Và chắc chắn Parnell không cho người ta buộc tội người anh hùng là kẻ buôn bán ma túy.
Nhưng tôi nhất định phải biết.
Rất nhiều câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời, và tôi chưa tiến được bước nào trong việc tìm kiếm Johnny.
Tôi nhớ đến lời khuyên của cha tôi: “Nếu con thấy bế tắc, kệ nó, hãy quay trở về những dữ liệu ban đầu và suy nghĩ cho thật kỹ, có thể con sẽ tìm ra một đầu mối quan trọng mà trước đó con đã bỏ qua”.
Bế tắc đúng là tình trạng của tôi hiện nay, đành quay trở về dữ liệu ban đầu vậy.
Fred Jackson là người chuyên nuôi ếch, đề nghị đại tá Parnell tìm đứa cháu đích tôn là Johnny. Ông trả một trăm đô và nhắn đại tá rằng Mitch Jackson là cha của Johnny. Parnell nhận nhiệm vụ này và giao cho tôi.
Tôi đã phát hiện ra các sự kiện sau: người ta giết Fred Jackson. Để bảo vệ viên cảnh sát trưởng sâu rượu và không để cảnh sát bang điều tra, bác sĩ Steed đã kết luận Fred tự sát. Dưới giường Fred , tôi thấy một cái hố trống và nhiều khả năng ông già giấu tiền để dành ở đó. Có ai đó đã lấy sạch mọi thứ trong nhà, kể cả tấm Huân chương Danh dự của Mitch và tiền để dành của Fred. Theo lời đồn thì Mitch và Syd Watkins đã gây ra nhiều chuyện tai tiếng trong làng. Rồi cả hai đều nhập ngũ.
Ít lâu sau khi Mitch đi lính, một thằng bé tám chín tuổi tới Searle tìm ông nội nó là Fred Jackson. Thằng bé có tên Johnny nhờ người bưu tá gửi hộ bức thư cho bà Stella Costa. Thằng bé ở lại với ông nó và đi học tới lúc nó mười bốn tuổi. Những người tới nhà Fred không ai thấy thằng bé cả. Trong suốt sáu năm sau khi Mitch chết, tháng nào Fred cũng nhận được một bức thư từ Miami.
Nếu mọi sĩ quan đều đánh giá cao Mitch, thì một người lính da đen tên Hank Smith lại nói rằng Mitch bán ma túy và đã chết khi cứu những tên lính trẻ, nguồn thu nhập béo bở của anh ta. Smith đã bị giết. Tôi cũng bị một gã nhọ và hai thằng du đãng tấn công. Và Harry Weatherspoon nguyên là nhân viên cơ quan phòng chống ma túy của quân đội, muốn mua lại cơ ngơi của Fred. Ông yêu cầu luật sư của mình là Edward Benbolt cho đăng thông báo tìm Johnny trên báo chí. Bây giờ ông ta không quan tâm nữa.
Stella rõ ràng là mẹ của Johnny, bà ta làm việc trong một hộp đêm mờ ám do gã Mêhicô tên Edmundo Raiz cai quản. Một cô vũ nữ thoát y tên Bêbê Mansel cho biết Stella chết vì tiêm ma túy quá liều và Johnny là một gã đồng tính sống cùng một gã da đen. Bêbê dùng chiếc xe mang biển đăng ký theo tên bà Phyllis Stobart, vợ một thương nhân từ Sài Gòn trở về có tên Herbert Stobart.
Wally Watkins, cha của Syd nói đã đặt hoa ở mộ Jackson và khẳng định đó là điều mà Johnny muốn làm. Nhưng ông già rõ ràng là nói dối. Tôi biết chắc chắn Wally vẫn đang liên lạc với Johnny.
Tôi suy ngẫm tất cả các yếu tố đó, nhưng chưa có kết luận rõ ràng. Lúc này tôi cách trang trại nuôi ếch của Fred chỉ hơn một cây số. Tôi quyết định tới đó xem xét lần nữa. Biết đâu có chi tiết nào mà tôi bỏ sót. Một sự lục soát không có sự mất tập trung do có mặt Anderson, có thể sẽ có yếu tố mới mẻ.
Tôi lên đường tới trại nuôi ếch. Tôi cho xe chạy theo con đường hẹp, tới chỗ ngoặt rộng, tôi dừng xe và đi bộ. Tôi quan sát ngôi nhà. Cửa vẫn hé mở. Bầu không khí vẫn như trước kia: hơi nóng ẩm, tiếng ộp oạp của lũ ếch và vẻ tiêu điều của ngôi nhà.
Theo bản năng, tôi mở cúc áo vét để có thể rút nhanh khẩu 38 ly. Tôi đến ngôi nhà và đẩy cửa.
Tôi đứng khá lâu để quan sát căn phòng mờ tối. Người ta có cảm giác như có kẻ nào đó đã đến đây đập phá. Một chiếc bàn gãy hết chân, những chiếc ghế mất lưng, những chiếc thảm bụi bặm lật lên hết. Các bức vách bị rìu chém nham nhở tạo thành những lỗ hổng to tướng. Hai chiếc ghế phô-tơi cũ bị rạch lung tung, lòi ra những thứ nhồi bẩn thỉu.
Tôi đi ngang qua đống hỗn độn đó và bước vào phòng Fred. Ở đây cũng thế, mọi thứ đều bị đập phá. Chiếc giường cũng như chăn đệm đều bị phá nát. Cửa tủ quần áo cũng mở toang và bị giật sắp rời khỏi bản lề. Quần áo bẩn của Fred rắc đầy sàn nhà. Căn phòng còn lại cũng ở tình trạng như vậy. Tất cả đều bị rìu bằm nát. Có kẻ đã tới đây tìm gì đó, và đã quyết tâm phải tìm bằng được.
Tình trạng thê thảm của ngôi nhà và cảnh hỗn độn ở đây mách bảo tôi rằng lục soát tiếp ở đây chỉ mất thời gian vô ích.
Tôi bước ra khỏi nhà trong cái nắng chói chang. Tiếng ộp oạp của lũ ếch khiến tôi không sao tập trung suy nghĩ được. Tôi quyết định nói với cảnh sát trưởng Mason về những điều diễn ra ở đây. Một kẻ nào đó đã tới đây tìm kiếm tiền của Jackson.
Tôi quay lại con đường nhỏ dẫn tới chỗ đỗ xe, nhưng rồi chợt dừng lại. Không hiểu sao tôi lại nảy ra ý muốn ngó lại cái đầm nuôi ếch một lần nữa. Đôi khi tôi hay có những trực giác rất lạ, mà lần này lại rất mạnh.
Tôi đi xuống theo con đường hẹp và càng tới gần khu đầm thì tiếng ộp oạp của lũ ếch càng làm tôi ù tai. Tôi cảm thấy đơn độc và hơi rờn rợn, bèn đặt tay lên bao súng, nhưng cũng chẳng ăn nhằm gì.
Tôi rón rén đi tới mép đầm. Chắc có tới hàng trăm con ếch trên bờ đang giáp mặt với tôi. Chúng tạo thành một đội quân, giương những đôi mắt xanh nhìn tôi. Tôi vẫn lặng lẽ tiến lên.
Đầm lõng bõng bùn và mọc đầy cỏ lác, phản chiếu hơi nóng mặt trời đến ngột ngạt. Giữa đầm, tôi nhìn thấy hình như có một cái bè có hàng chục con ếch ngồi trên đó. Tôi tiến tới gần hơn và nín thở khi nhận thấy một cánh tay người. Thì ra đó không phải là bè! Mà là một xác người!
Tôi vỗ tay. Ngay lập tức lũ ếch biến hết. Tôi đi xuống mép đầm và nhìn cái xác nổi lềnh bềnh.
Một con ếch lớn vẫn ngự trên đầu cái xác. Nó nhìn tôi không mấy thiện cảm, kêu mấy tiếng rồi nhảy đại xuống nước.
Cái xác đó là thi thể của Harry Weatherspoon.
- Chương 13:
Tôi gọi điện cho cảnh sát trưởng Mason trong một cabin điện thoại bên đường cái. Bill Anderson nhanh chóng nhấc máy.
- Bill hả? Mình báo cho cậu biết là ngôi nhà của Fred đã bị đập phá tan hoang, - tôi nói. - Mình nghĩ rằng cần phải báo cho các cậu biết.
- Đập phá tan hoang kia à?
- Đúng thế.
Im lặng một lúc lâu rồi Bill hỏi tôi:
- Hãy tha lỗi cho tôi, Dirk ạ. Anh đang làm gì ở đó thế?
- Mình buồn quá, chợt thấy quan tâm tới lũ ếch.
- Tôi sẽ tới đó ngay.
- Chính vì thế mà mình gọi cho các cậu. Nhớ đưa cả Mason, bác sĩ Steed, xe cấp cứu và hai người thật khỏe mang ủng lội bùn đấy.
- Anh nói sao?
- Mình quên chưa nói với cậu chi tiết này. Harry Weatherspoon đang uống no bùn trong đầm nuôi ếch. Chắc là hắn ngoẻo rồi và lũ ếch chẳng tỏ ra đau buồn gì. (Tôi gác máy).
Tôi quay lại ngôi nhà của Fred, ngồi xuống chiếc ghế dưới bóng râm và chờ đợi.
Một giờ sau mới thấy xe của cảnh sát trưởng rẽ vào con đường hẹp. Bill Anderson ngồi sau tay lái, Mason và bác sĩ Steed ngồi ở ghế sau. Trong chiếc xe cứu thương chạy phía sau có hai người da đen cao lớn và hai người da trắng mắc quần áo bảo hộ.
Tôi tiến tới đón mọi người xuống xe. Cảnh sát trưởng Mason vẫn còn đang ngà ngà, chân đứng không vững. Bác sĩ Steed có vẻ hơi lo lắng. Bill Anderson mặt vẫn chưa hết ngạc nhiên.
- Trước hết ta hãy xem qua trong nhà đã, - tôi nói. - Ông Weatherspoon cũng chẳng có gì phải vội.
Sau khi nhìn tôi với ánh mắt ngờ vực, Mason và Steed cùng bước vào nhà.
- Cậu cũng nên vào xem, Bill ạ.
Anderson liền nhập bọn với hai người kia.
Người da đen nhìn tôi và nói:
- Một nạn nhân mới à?
- Đúng thế. Anh ta ướt sũng rồi. Nếu anh có vải mưa thì hãy lấy ra đi.
Ba người trong nhà đi ra.
- Chà… chà…, - bác sĩ Steed lẩm bẩm. - Cái bọn trẻ bây giờ đúng là lũ phá hoại. Chúng không còn coi ai ra gì nữa.
- Ông nghĩ sao, Mason? - Tôi hỏi.
Mason chớp mắt và gật đầu.
- Đ... úng thế, bọn phá hoại.
- Các ông có cảm thấy bọn nó tới đây là để tìm kiếm cái gì đó không?
- Bọn phá hoại thôi! - Mason nhắc lại.
- Thế còn ông Weatherspoon thì sao? - Bác sĩ Steed hỏi. - Anh nói ông ta chết rồi phải không?
- Đó mới chỉ là cảm tưởng của tôi thôi, biết đâu các ông có thể nghĩ rằng ông ta giả vờ cũng nên. (Tôi quay sang người đi ủng). Các anh cần phải tìm một cái sào có móc.
Người này nhìn tôi toét miệng cười.
- Tôi có một cái rồi, - anh ta lấy từ xe cứu thương ra một chiếc sào dài.
Một người đi ủng nữa cũng lấy xuống một mảnh vải mưa lớn. Xem ra Anderson cũng khá tháo vát.
Rồi tôi dẫn đầu đoàn người đến đầm. Mason có vẻ khó nhọc lê bước theo con đường hẹp.
Những con ếch lại nhảy lên ngồi trên xác Weatherspoon như trên một cái bè. Thấy chúng tôi tới, chúng lại nhảy hết xuống đầm. Cuối cùng, bác sĩ Steed lên tiếng:
- Tội nghiệp ông ta. Thật là kinh khủng! Thôi nào, các anh, hãy vớt ông ta lên đi.
Hai người cứu thương trải tấm vải mưa xuống đất, còn hai người đi ủng lội xuống kéo xác Weatherspoon vào. Họ đặt ông ta lên tấm vải mưa rồi lùi lại.
Tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ nhìn cái xác. Miệng và lỗ mũi ông ta chứa đầy bùn nhão xanh lét. Tay phải ông ta nắm chặt một vật dài và đầy lông lá cuốn xung quanh cổ tay ông ta.
- Lạy Chúa, Larry! - Mason kêu lên khi nhìn Weatherspoon. - Chuyện gì đã xảy ra thế này?
- Cho tôi mấy phút nào, Tim. - Ông bác sĩ Steed bình tĩnh nói.
Ông quỳ xuống, xem xét đầu Weatherspoon, rồi nhìn xung quanh và gật đầu.
- Chết do tai nạn, Tim ạ. - Ông nói. - Chuyện này hiển nhiên như mũi ở giữa mặt người.
Tôi bèn tới gần viên bác sĩ.
- Ông ta cầm gì ở tay thế kia? - Tôi hỏi.
Tôi quỳ xuống, cầm lấy vật đó và nhẹ nhàng gỡ ra trong khi Steed đứng quan sát tôi.
- Một bộ tóc giả! - Tôi kêu lên và giơ cao mớ tóc vàng ướt sũng.
Đúng là một bộ tóc giả rất bình thường mà người nào cũng có thể mua ở bất cứ cửa hiệu nào.
- Không có gì quan trọng cả, - bác sĩ Steed nói. - Thật tội nghiệp.
Mason bước lên lắp bắp:
- Có phải chết do tai nạn không, Larry?
- Không còn nghi ngờ gì nữa! Thì cứ nhìn đây này, - ông nói và chỉ những cái rễ cây mọc đâm xuống tận đầm. - Có một vết bầm máu bình thường ở gáy ông ta. Rõ ràng là ông ta bị trượt chân ngã, đập đầu vào rễ cây, lăn xuống nước và chết đuối. Nghĩa là chết vì tai nạn.
Cảnh sát trưởng thở phài nhẹ nhõm.
- Thế thì khỏi cần báo cảnh sát bang, hả?
- Trong trường hợp chết do tai nạn thì khỏi cần, - bác sĩ Steed khẳng định. - Thôi nào, các chàng trai, hãy đưa ông ta về nhà xác. Tôi sẽ tới đó ngay.
- Ấy, đi đâu mà vội, - tôi nói. - Cần phải kiểm tra các túi ông ta đã.
- Tôi sẽ làm điều đó ở nhà xác.
- Tốt nhất là nên làm khi có mặt mọi người làm chứng. (Tôi quay sang Anderson). Cậu hãy lục soát các túi xem.
Anderson lưỡng lự. Nhưng thấy cảnh sát trưởng không nói gì, anh ta quỳ xuống cạnh cái xác và nhanh chóng lộn hết các túi trên người Weatherspoon. Tất cả chỉ có một bao thuốc đã ướt sũng, một cái bật lửa bằng vàng và một cái ví có hai trăm đô tiền lẻ.
Anderson lập danh sách các vật mà anh ta đã tìm thấy trong túi Weatherspoon rồi đưa cho bác sĩ Steed.
- Vết thương là do đập vào rễ cây này, phải không bác sĩ? - Tôi hỏi.
Steed gật đầu
- Điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.
- Thế nhỡ có ai tới từ phía sau và đập vào gáy ông ta thì sao?
Sau một lát im lặng, viên cảnh sát trưởng nói:
- Anh đã nghe bác sĩ Steed nói rồi đấy. Cho phép tôi báo cho anh biết bác sĩ đây hành nghề từ khi anh còn chưa đẻ kia. Tôi không cần bận tâm tới nhận xét của anh. Mà anh đã làm gì ở đây?
- Tôi đi tìm Johnny Jackson, - tôi đáp. - Thế ông tự hỏi Harry Weatherspoon tới đây làm gì chưa?
- Ông ta muốn mua trang trại này. Ông ta tới đây để xem thực trạng ra sao. Chuyện đó cũng tự nhiên thôi, phải không?
- Đúng thế. Nhưng ông ta tới đây xem và mang cả rìu theo.
Viên cảnh sát trưởng nổi cáu.
- Anh đi đi, anh không có quyền ở đây. Anh chỉ gây chuyện những chuyện rắc rối.
- Ông có tự hỏi Weatherspoon tới đây bằng cách nào không? Không có xe của ông ta ở đây. Hay là ông ta đi bộ tới?
Nói xong, tôi đi về phía ngôi nhà để mặc cho Masoon và Steed lúng túng nhìn theo.
Tôi tính toán rằng phải mất một thời gian người ta mới gói xong và chở cái xác đi. Ra khỏi tầm nhìn của họ, tôi vùng bỏ chạy. Tới ngôi nhà tôi lẻn vào. Trước hết phải tìm cho ra chiếc rìu, sự đập phá chỉ có thể làm bằng dụng cụ này.
Sau hai ba phút, tôi tìm thấy nó được giấu trong đám vật liệu nhồi ghế phô-tơi. Đó là một chiếc rìu cán ngắn, lưỡi khá sắc. Tôi cuộn tay trong chiếc mùi soa rồi cầm lưỡi nhấc lên và kiểm tra phần sống rìu. Không có kết quả gì. Tôi chợt thấy trên cán rìu có một cái nhãn nhỏ ghi: “Tài sản của nhà Morgan và Weatherspoon”. Tôi đặt chiếc rìu vào nơi Anderson có thể nhìn thấy, rồi đi ra khỏi nhà và vòng ra phía sau.
Quay về chỗ bóng cây. Tôi thấy một chiếc xe máy Honda. Tôi nghĩ đây là chiếc xe mà Weatherspoon đã đến đây. Tôi cũng cho rằng ông ta tới đây có mang theo cả rìu và dùng nó đập phá một cách hệ thống trong nhà. Ông ta tìm kiếm gì? Rõ ràng ông ta chỉ tìm thấy một bộ tóc giả màu vàng. Tôi nhớ Abe Levi nói ông ta thấy ở nhà Fred có một cô bé tóc vàng. Và người ta cũng nói Johnny là một đứa ái nam ái nữ. Johnny có thể mua mua tóc giả ở Searle và đội nó vào những ngày ông già Fred không ở nhà và bất chợt bị Levi nhìn thấy.
Điều này giải thích được sự có mặt của cô gái bí ẩn. Wally hoàn toàn có lý khi nói rằng nếu Levi thấy đứa con gái ở nhà Fred thì chỉ có thể là Johnny.
Khi đi ra con đường hẹp dẫn tới chỗ đỗ xe, bất chợt tôi nảy ra một ý. Đó là có thể Weatherspoon sau khi phát hiện ra một thứ khác ngoài bộ tóc giả đã bị tên theo dõi giết chết. Liệu có phải hắn cũng là tên giết Jackson không?
Tôi quyết định tiếp tục đào bới cho tới khi Parnell trở về. Tôi sẽ báo cáo với ông tất cả những điều tôi biết và để ông ấy quyết định.
***
Tới Searle, tôi đậu xe trước khách sạn và đi vào. Mọi người có mặt ở đó đều nhìn chằm chằm tôi và xì xào bàn tán. Hàng chục người đang ngồi ăn cũng nhìn tôi với ánh mắt đầy hy vọng.
Tôi gọi một chiếc bánh sandwich nhồi thịt gà và dăm bông cho vào một cái túi.
- Chuyện xảy ra với ông Weatherspoon thật khủng khiếp! - Một người hầu bàn nói.
Tất cả mọi người đều dừng ăn và dỏng tai nghe.
- Có ai sống mãi được đâu, - tôi đáp và không ngạc nhiên là tin tức đã loan về đến Searle, rồi tôi trả tiền.
- Xin lỗi, ông Wallace, - một người nhỏ thó đang nhồm nhoàm nhai nói. – Tôi nghe là ông đã phát hiện ra xác của ông Weatherspoon, phải vậy không?
- Nếu đó không phải là ông ta thì là ai đó mặc quần áo của ông ta, - tôi nói rồi bước ra.
Tôi phóng xe tới nhà máy Morgan và Weatherspoon, đậu xe trước cổng, rồi đi tới kho chế biến. Tôi thấy Levi ngồi ăn trong cái vỏ hộp như lần trước. Ông già Levi vẫy tay gọi tôi. Tôi đi tới và ngồi xuống cạnh ông.
- Bác vẫn thích món đậu hay cùng ăn bữa trưa với cháu? - Tôi hỏi và mở cái túi giấy ra.
- Bánh mì à? Không bao giờ. Tôi thích món đậu này hơn. Đã hơn hai mươi năm nay tôi chỉ ăn món này.
Tôi đành rút bánh ra nhai.
- Ông chủ đã bị ngã xuống đầm nuôi ếch và chết đuối, phải không? - Levi hỏi và dùng thìa vét thức ăn trong hộp.
- Đúng thế. Nhưng rồi nhà máy sẽ ra sao?
- Tôi cóc cần biết. Tôi sẽ xin về hưu. Tôi cũng ngán đi thu gom ếch lắm rồi. Tôi có một bà vợ hiền thục, một ngôi nhà đàng hoàng và một ít tiền để dành. Thế thì can cớ gì tôi phải lo cho số phận nhà máy.
- Weatherspoon có vợ con gì không?
Một ánh nhìn tinh quái lại lóe lên trong mắt ông già.
- Anh lại cần thông tin phải không?
Tôi đáp đúng thế.
- Thế thì chi hai mươi đô đây, sự tò mò của anh sẽ được thỏa mãn.
Thời gian rất gấp rút. Tôi mở ví lấy ra tờ năm đô và đưa cho ông.
- Để xem bác có thỏa mãn được sự tò mò của cháu hay không.
- Anh hỏi tôi, ông chủ có vợ con gì không, đúng thế không?
- Này bác Levi, đừng có chơi trò mèo vờn chuột nữa. Bác sẽ có hai mươi đô nếu bác cung cấp đúng thông tin mà cháu cần. Weatherspoon có vợ con gì không?
- Không. Nhưng ông ta ngủ khắp lượt. Với cả con Peggy ông ta cũng không thạ Con bé cứ nghĩ ông ta cưới nó đến nơi, nhưng ông ta đâu có phải loại người làm chồng, thế mà con bé cứ hoắng cả lên.
- Bác có biết ai sẽ là người thừa kế nhà máy này không?
- Tôi nghĩ là chẳng có ai. Weatherspoon là người độc thân. Nhà máy này có giá lắm đấy. Khi mua lại của Morgan, ông chủ mới bắt đầu cho đóng hộp ếch. Nhờ thế, ông ấy cung cấp đùi ếch cho hầu hết các khách sạn sang trọng và hốt bạc.
- Ếch đóng hộp? Thế mà cháu không biết người ta đóng hộp cả ếch kia đấy, - tôi nói vẻ chế nhạo. - Người ta chỉ ướp lạnh đùi ếch, chứ ai lại đóng hộp bao giờ.
- Anh còn lạ gì, Wallace. Phụ nữ bây giờ lười nhác lắm. Họ cho chồng con ăn toàn đồ hộp thôi. Riêng tôi vẫn thích đậu Hà Lan đóng hộp.
- Thế ra ông ta đã xây dựng cả một nhà máy đóng hộp ếch.
- Thì chứ sao. Đây không phải là chỗ của tôi. Tôi chỉ chuyên đi thu gom ếch thôi. Còn xưởng đóng hộp dưới kia kìa. Phụ trách nó là một cô gái thông minh lắm. Cô ta lo chuyện này từ khi ông chủ mua nhà máy. (Ông ta nhìn tôi hỏi). Anh có muốn biết thêm nữa không?
- Nếu bác muốn có mười lăm đô còn lại thì phải nói thêm nữa.
Ông già vét hết số đậu còn lại trong hộp, rồi nói:
- Ông chủ là tay bẩn thỉu lắm. Ông ta lúc nào cũng chạy theo đồng tiền. Ông ta lập cả một băng găngxtơ nữa kia. (Ông già lại nhìn tôi). Mà không hiểu tại sao thứ năm nào ông ta cũng cưỡi Honda đi và trở về với cái túi da buộc phía sau. Tôi thường gặp ông ta đi và khi tôi đang dỡ hàng thì ông ta về. Thi thoảng còn có một tay Mêhicô cũng lai vãng đến đây. Họ thì thầm bí mật trong văn phòng ông chủ. Cứ như buôn bạc giả ấy.
- Gã Mêhicô ấy trông thế nào?
- Một thằng bẩn thỉu với hàng ria mảnh. Tháng nào hắn cũng tới. Rồi có một gã nữa đi chiếc xe Jaguar. Tôi chỉ gặp hắn một lần. Hôm đó tôi sửa xe tới tối muộn. Tôi thoáng thấy hắn và không hiểu hắn là ai. Tôi nghe thấy hắn to tiếng với ông chủ.
Tôi đưa thêm cho ông mười đô nữa.
- Hắn nói những gì?
- Tôi không nhớ chính xác. Chỉ nhớ là chuyện tiền bạc gì đấy. Hắn hét: “Trả đi”. Sau đó không thấy ầm ĩ nữa. Tôi không quan tâm đến chuyện của họ, tôi đang sửa xe mà.
- Thế cô gái phụ trách xưởng đóng hộp tên gì?
- Cloe Smith. Anh có định nói chuyện với cô ấy không, Wallace?
- Tại sao lại không?
- Đừng có đút tiền cho cô ấy đấy. Đối với một người da đen thì cô ấy thuộc loại khá giả rồi.
- Xin nghe lời bác.
Tôi đưa nốt năm đô dự trữ cho ông già.
- Nếu cháu nghĩ thêm được ý gì, cháu sẽ tìm bác.
Tôi chia tay ông già Levi rồi đi vào nhà kho cuối sân. Tôi mở cửa bước vào một căn phòng dài và hẹp. Cạnh cửa sổ là một dãy vỏ hộp chưa đóng. Trong góc có một thiết bị hàn và cả đống nắp vỏ hộp.
Một cô gái da đen cao lớn từ phòng bên cạnh bước ra và chòng chọc nhìn tôi. Cô ta rất đẹp. Người cân đối, nước da đen như mun và khuôn ngực căng tròn. Trông cô chỉ trạc độ trên dưới ba mươi.
- Cô Smith? - Tôi hỏi và mỉm cười thân thiện.
Từ chỗ râm, cô bước ra chỗ có ánh nắng xuyên qua các cửa sổ.
- Đã đến giờ đóng cửa rồi, - cô nói bằng một giọng nghiêm nghị nhưng du dương.
- Tôi chỉ muốn hỏi cô hai ba câu hỏi thôi. Tôi là Dirk Wallace.
Cô gái gật đầu.
- Có báo cho cô tin buồn này chắc cũng vô ích thôi, cô Smith ạ. Vì ở Searle này tin tức lan truyền nhanh kinh khủng.
Lại gật đầu.
- Cô có biết Johnny Jackson không?
- Không.
- Chắc là cô biết tôi đang tìm anh ta chứ?
- Tôi có nghe nói.
- Cô Smith ạ, biết đâu cô có thể giúp được tôi cũng nên. Vì ông Weatherspoon muốn mua trang trại của Jackson mà. Người ta nói với tôi là ông chủ của cô bán ếch cho các khách sạn, nhưng tôi lại không biết ông ấy cho đóng hộp.
Cô gái nhìn tôi dò xét và suy nghĩ.
- Thế thì có quan hệ gì đến Johnny Jackson?
Tôi cố nở một nụ cười cầu thân.
- Tôi cũng không biết. Nghề của tôi là tìm kiếm thông tin mà. Đôi khi thông tin này lại xác nhận một thông tin khác. Ông Weatherspoon có bán nhiều ếch đóng hộp không?
- Không. Chúng tôi chỉ bán khoảng năm trăm hộp mỗi tháng. Nhưng ông Weatherspoon nói đó mới chỉ là bắt đầu thôi. Tôi nghĩ chắc sẽ còn tăng nữa.
- Cô có thể cho tôi biết cách chế biến không?
Cô gái nhún vai.
- Ếch được đưa đến chỗ chúng tôi từ phân xưởng ở đầu kia. Chúng được tẩm bột rồi đem rán và sau đó đóng hộp. Khách hàng chỉ việc mở hộp đặt trên đĩa rồi hâm nóng trên bếp chỉ mười lăm phút là ăn ngon lành.
- Chỉ có thế thôi sao?
- Chương 14:
- Chưa hết. Ông Weatherspoon còn phát minh ra thứ nước chấm đặc biệt bán kèm theo đùi ếch. Thành phần chính là một loại bột được đựng trong một túi nylon đặt trong hộp. Chỉ có ông ta mới biết bí mật làm ra thứ bột này. Việc pha chế cũng rất nhanh: cho chất bột vào nồi, thêm vào đó một chút nước, một chút sữa và rượu trắng rồi đun nhỏ lửa khoảng ba phút là xong.
- Rất hấp dẫn, - tôi nói. - Tôi vốn hay tìm những món dễ nấu mà. Tôi có thể mua một hộp để nấu thử được không?
Cô gái lắc đầu.
- Không được. Về điểm này ông Weatherspoon rất thận trọng. Ông luôn luôn tự tay đặt các gói bột nước chấm vào từng hộp và đứng bên cạnh trông tôi hàn. Ông ta có một danh sách những khách hàng đặt trước chỉ một hộp mỗi tháng. Những hộp này đều được bao gói rất cẩn thận.
- Tôi có thể mua một hộp như thế này ở cửa hàng thực phẩm không?
- Chúng chỉ được bán cho những khách hàng đặt trước. Ông Weatherspoon nói rằng chúng tôi không đủ khả năng cung cấp bán lẻ. Nhưng ông hy vọng rằng việc làm ăn rồi sẽ phát triển rất nhanh.
Tôi đã bắt đầu thấy sự vật đã hơi sáng tỏ.
- Cám ơn cô Smith rất nhiều. Nhưng bây giờ ở đây sẽ ra sao?
Cô gái nhún vai.
- Tôi cũng không biết nữa. Chắc là tôi sẽ phải tìm một công việc khác.
- Đối với một cô gái xinh đẹp và thông minh như cô thì có khó gì. Biết đâu ông Weatherspoon chả có một cộng sự sẽ mua lại nhà máy.
- Có một người Mêhicô thường xuyên tới đây. Nhưng tôi không biết ông ta có cộng tác với ông chủ tôi không? Cũng có thể đó chỉ là một khách hàng.
- Tôi nghĩ là tôi biết anh ta: người nhỏ con, vai rộng và hàng ria mép mảnh.
Cô gái gật đầu và nhìn tôi vẻ tư lự.
- Ông có còn gì muốn hỏi không? Tôi cần phải về rồi.
- Rất tiếc đã làm mất thì giờ của cô. Xin hỏi một câu cuối. Ông Weatherspoon sống ở đâu?
- Ông ấy có căn hộ ở ngay bên trên văn phòng.
- Ông ấy có vợ không?
- Không.
- Cám ơn cô Smith. - Tôi nói và mỉm cười thân thiện, rồi chia tay cô.
Tôi trở về khách sạn Jumping Frog. Bob Wyatt ngồi ở quầy tiếp tân. Trông ông có vẻ gần đất xa trời lắm rồi.
- Không biết bao nhiêu là tin buồn! - Tôi nói và dừng trước mặt ông.
Ông gượng cười với vẻ mệt mỏi.
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên mà.
- Rồi ông sẽ tìm được người mua khác thôi. Đã đến ngày tận cùng thế giới đâu mà lo.
- Tôi đâu có lo cho tôi, lo là lo cho con Peggy kia.
- Bệnh tình cô ấy sao rồi?
- Người ta nói rồi cũng qua thôi. (Ông nhìn tôi buồn bã). Nó buồn lắm, mà tôi thì không thể bỏ khách sạn đến thăm nó luôn được.
- Ông nghĩ rằng cô ấy sẽ vui khi có người đến thăm ư? Chiều nay tôi rỗi, tôi có thể mang hoa tới và nói chuyện với cô ấy một lúc, được chứ ạ?
Gương mặt ông già tươi hẳn lên.
- Thật thế chứ? Nó có vẻ mến anh lắm, anh Wallace ạ. Tôi chẳng biết nhờ cậy ai làm việc đó. Các bà ở đây thì lại không ưa nó.
- Thôi cứ để tôi làm cho. Tôi sẽ tới đó ngay bây giờ. Bệnh viện ở chỗ nào, ông Bob?
Ông chỉ đường cho tôi. Bệnh viện chỉ cách Searle khoảng một cây số.
Mang một bó hoa tươi và một cuốn sách ăn khách mới nhất của Judith Kantz, tôi bước vào sân bệnh viện và phát hiện ngay ra Peggy đang ngồi ở ban công, mắt nhìn đăm đăm vào cánh rừng thông.
Cô ta nhìn tôi, miệng há ra vì ngạc nhiên, rồi mặt cô ta rạng rỡ hẳn.
- Dirk! Sao lại có chuyện lạ thế này!
- Sức khỏe cô thế nào rồi? - Tôi hỏi rồi đặt quyển sách và hoa xuống cái bàn ở bên cạnh cô.
- Rồi cũng ổn thôi. Qua cơn nguy kịch rồi, bác sĩ Vance sẽ cho em xuất viện ngày mai.
- Thật thế ư? Sao sớm thế?
Peggy cười.
- Thì em có phải nghiện rượu thật đâu, trông bên ngoài có vẻ thế thôi. Em đau buồn là đau buồn vì tình kia.
Tôi ngồi xuống bên cạnh cô.
- Thật là một tin tốt lành. Thế nỗi đau buồn vì tình của cô ra sao rồi?
- Hai giờ trước, cô y tá đã cho em biết rằng hắn ta đã chết rồi. Thậm chí em không nhỏ một giọt nước mắt nào. Thế mà em cứ tưởng mất trí vì ông ta.
- Ở tuổi cô, tôi cũng đã từng mất trí vì một cô gái, - tôi nói dối. - Phải mất một thời gian mới nguôi ngoai được, nhưng rồi sẽ qua.
- Ba em có khỏe không?
- Chắc sẽ khỏe hơn nhiều nếu cô về nhà. Hiện thời, không có cô, ông nhà phải trông nom khách sạn cũng vất vả.
- Em cũng chắc vậy. Tội nghiệp ba em! Anh nói giúp với ba em là mai em xuất viện, được không?
- Tất nhiên rồi.
- Không hiểu khách sạn có bán được không?
- Không có Weathrspoon, thể nào chả tìm được người mua khác.
Cô gái gật đầu.
- Em rất muồn rời Searle. Ở đây chẳng ai yêu em cả.
- Hãy tới gặp ông Wallis Pollack. Ông ta có thể tìm cho cô một người mua.
- Đúng. Nhưng dù sao cũng phải đợi cho ba ra đi đã.
- Peggy này, tôi nghĩ là cô có thể giúp tôi. Càng tìm kiếm Johnny, cuộc điều tra chúng tôi càng trở nên phức tạp. Cô có thể cho tôi biết những chuyện đã xảy ra giữa cô và Weatherspoon được không?
- Giữa Harry và Johnny thì có quan hệ gì? - Cô ta nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên.
- Tôi cũng không biết. Tôi như người đi câu ấy mà. Cứ thả mồi xuống nước với hy vọng rằng một con cá nào đó sẽ cắn câu. Lần đầu tiên cô gặp ông ta là khi nào?
- Khoảng hai năm trước. Ông ta tới đề nghị với ba em mua lại khách sạn. Ông ta có nét gì đó khiến em mê ngay. (Cô ta giơ tay lên làm một động tác tuyệt vọng). Trời ơi, anh Dirk, bọn con gái chúng em mới nhẹ dạ làm sao!
- Đàn ông bọn tôi cũng vậy thôi.
- Rồi em yêu Harry đến mất trí. Ban đầu ông ta không mấy để ý đến em. Nhưng rồi em thấy ông ta dần dần đã tỏ ra quan tâm. Một buổi tối, ba em không được khỏe và đi nằm sớm, thì ông ta đến. Ông ta yêu cầu em cho xem căn phòng tốt nhất. Và điều gì xảy ra sau đó chắc anh đã đoán ra… (Cô gái thở dài). Ông ta đã đem lại cho em những khoái cảm tuyệt vời. Em cũng đã từng làm tình, nhưng Harry thì không ai sánh được. Ông ta làm cho em sung sướng tới mức chỉ nghĩ đến lần tiếp sau. Ở khách sạn mà làm chuyện đó thì quá nguy hiểm vì sợ ba em bắt được. Ông ta đề nghị em tới nhà ông ta. Đến đó chỉ mất mấy phút đi bộ chứ mấy. Đó là một căn hộ đẹp ngay bên trên văn phòng ông ta. Chúng em gặp nhau ba lần một tuần. Em không bao giờ thấy mệt mỏi vì ông ta.. Rồi em nhận thấy ông ta có vẻ lảng em. Một lần, ông ta tới ăn trưa ở khách sạn, mỉm cười với em và nói rằng tối nay đừng tới vì ông ta bận. Em ham muốn ông ta tới mức em phải uống một cốc rượu gin thật lớn cho quên đi, rồi đi nằm và khóc tới phát ốm. Lạy Chúa, em mới ngốc nghếch làm sao!
- Chuyện ấy cũng là bình thường thôi mà.
- Có thể! (Cô gái nhún vai). Bây giờ thế là hết. Và em thấy mừng! Sau đó mỗi tháng em chỉ được gặp ông ta một lần, nhưng rượu thì em tiếp tục uống.
- Nhưng tại sao cô lại thấy mừng, Peggy?
- Vì ở Harry có cái gì đó… khó giải thích lắm. Em có cảm giác như ông ta có dây vào những vụ buôn bán mờ ám. Đôi ba lần, vào ban đêm khi em và ông ta đang ngủ, thì điện thoại réo và ông ta đi xuống văn phòng. Nhiều lần em để ý ông ta la hét ầm ĩ trong điện thoại, có vẻ giận giữ lắm. Khi lên phòng, trông ông ta có vẻ dữ dằn và tàn ác thế nào ấy. Rồi ông ta bảo em phải đi vì ông ta có việc. Một hôm em phản đối không đi, ông ta vẻ mặt hầm hầm dữ tợn. Em sợ quá.
- Cô hãy quên hắn đi. - Tôi nói. - Hắn đã bước ra khỏi đời cô rồi.
- Chính vì thế mà em thấy mừng mà.
- Cô nói cô nghĩ rằng hắn có dây vào những vụ buôn bán mờ ám. Tại sao, Peggy?
- Em đâu có là con ngốc. Tại sao người ta lại gọi điện cho hắn vào hai giờ sáng? Tại sao ông ta lại đuổi em đi lấy cớ là có việc phải làm gấp? Và rồi lại còn chiếc xe tải tới vào lúc ba giờ sáng nữa chứ.
- Xe tải nào vậy, Peggy? - Tôi hỏi như để mà hỏi.
Cô gái lưỡng lự rồi nhún vai.
- Xét cho cùng, bây giờ hắn chết rồi, có nói ra cũng chẳng sao. Chuyện này xảy ra hồi em còn mê mẩn hắn. Có lẽ vì em uống hơi quá. Hắn đến khách sạn vào buổi tối chúng em đã hẹn để hủy bỏ hẹn đó. Dirk ạ, em đã chờ đợi buổi tối hôm đó với một sự sốt ruột kinh khủng! Em đã mơ cả về nó. Em muốn hắn sẽ bế em lên, ôm ấp em, làm cho em sung sướng. Đúng là em điên lên vì hắn. Mà tại sao em lại đi kể cho anh những chuyện này nhỉ?
- Nói được ra cô sẽ thấy nhẹ nhõm hơn, - tôi mỉm cười nói.
- Lạy Chúa, anh moi hết ruột gan em còn gì!
Vẻ mặt cô đột ngột thay đổi và tôi sợ cô sẽ mất đi sự tự tin vốn đã rất mỏng manh.
- Điều này rất quan trọng với tôi. Hãy kể về chiếc xe tải đi.
- Đây là lần đầu tiên có người tặng hoa cho em.
Tôi cố nén sự nôn nóng của mình.
- Và đây cũng không phải là lần cuối cùng! Em còn trẻ cơ mà.
Cô gái đặt bó hoa xuống rồi lật giở từng trang sách.
- Peggy, - tôi nói bằng một giọng nghiêm hơn. - Hãy kể về chiếc xe tải đi.
- Cái đêm ông ta hủy bỏ cuộc hẹn với em, em say mèm. Nằm trên giường em tự nhủ có thể là ông ta lừa em để đi với một cô gái khác. Em phải tìm ra sự thật. Em mặc quần áo rồi đi tới nhà máy. Lúc đó đã quá nửa đêm. Cổng vào rất may không khóa. Nhưng căn hộ của Weatherspoon vẫn sáng đèn. Có thể là anh không hiểu, nhưng lúc đó em bị kích thích mạnh, do có cả hơi men nữa, đến gần như phát điên. (Rồi cô ta nhìn tôi đắn đo).
- Tôi hiểu.
- Em vẫn băn khoăn không biết anh có hiểu thật không. Nói thì dễ. Mà thôi… Thực ra, em vẫn tự hỏi không biết con người ta có hiều những người khác hay không?
- Thì họ vẫn cố hiểu đấy chứ.
- Em cầm chắc rằng có một cô gái khác đang ở phòng hắn ta. Em phải biết đó là ai. Nhưng do say quá em không đủ dũng cảm đi vào để bắt quả tang. Vả lại, hắn ta có thể giết chết em, nếu em gây ầm ĩ. Em đành nấp bên ngoài. Đúng là trò tra tấn, em phải đợi hơn 3 giờ đồng hồ. Lúc đó em đã dã rượu. Em cay đắng thấy mình phải ngồi xổm sau thùng tônô chở ếch tanh tưởi, lòng tan nát vì ghen tuông. Cùng với cơn say tan dần, em cũng bắt đầu hiểu ra rằng em chỉ là con ngốc và Harry cũng chẳng là cái đinh gì. Em đang định bỏ về, thì chiếc xe tải tới. Sau khi bóp còi, một người đàn ông từ trên xe bước xuống, mở cổng. Đợi chiếc xe tải vào trong sân anh ta khóa cổng lại. Trời tối em chỉ nhìn thấy bóng người. Rồi cửa văn phòng mở và Harry bước ra. Ánh sáng từ văn phòng lọt ra và em nhìn thấy người đàn ông thứ hai trên xe bước xuống. (Cô gái run người lên). Hai gã này khiến em thấy sợ. Đó là hai gã da đen. Điệu bộ của họ lạ lắm. Họ đi theo Harry vào văn phòng. Hai mươi phút sau, họ chuyển ra những chiếc hộp các tông nhỏ và xếp lên xe. Họ làm nhanh lắm, nhưng có lẽ tới hàng trăm hộp. Sau khi xếp xong, cả hai gã da đen quay vào văn phòng. Từ chỗ nấp em nhìn rõ những gì diễn ra trong đó. Harry giao tiền cho họ, rồi họ lên xe và lái đi. Harry ra mở cổng, rồi khóa lại và trở về phòng. Một lát sau, tất cả các đèn đều tắt. Em thấy mình thật vớ vẩn, có đứa con gái nào đâu, trong khi mình lại bị nhốt trong nhà máy thế này. Sau khi tìm khắp lượt, em phát hiện thấy có cửa sau. Ổ khóa đã han gỉ mủn cả ra. Em mở cửa và đi về nhà.
- Thật là một đêm đáng ghi nhớ!
- Chính vì thế mà em nói rằng hắn có dây dưa vào chuyện buôn bán mờ ám. Anh có hiểu chuyện gì ở đây không, Dirk?
- Hãy nghe tôi, Peggy. Hắn ta đã chết rồi, em hãy quên chuyện này đi. Bây giờ hãy nói chút gì về em đi.
- Chưa bao giờ em kể cho ai như vừa kể với anh, - cô nói. - Xin lỗi, nếu em làm anh phiền lòng.
Tôi cười.
- Rồi đâu sẽ vào đấy thôi, Peggy ạ. Em đã có những phút khó khăn, nhưng giờ thì đã qua rồi. Hãy tới gặp ông Willis Pollack đi. Ông ấy sẽ tìm cho em một người mua khác. Nhưng trước mắt hãy trở về giúp cha em đã.
- Anh là người biết cảm thông nhất mà em đã từng gặp, - cô nói vẻ cảm động.
Trở về khách sạn, tôi nói với cha Peggy rằng con gái ông đã bình phục và sáng mai sẽ xuất viện.
Nghe tin đó, ông trẻ ra đến năm tuổi.
Sau bữa tối ngon lành với món súp cá, tôi lên phòng ngồi xem một bộ phim Viễn Tây cũ đầy bạo lực. Hai mươi giờ bốn nhăm bộ phim kết thúc, tôi lấy đèn pin cực mạnh, kiểm tra lại súng và đi xuống tiền sảnh. Ông già Abraham đang ngủ say sau quầy tiếp tân. Hai thương gia vẫn đang ngồi làm việc. Không ai ngước mắt nhìn tôi khi tôi bước ra đường phố vắng tanh. Ở Searle này, người ta đi ngủ khá sớm.
Đồn cảnh sát cũng chìm trong bóng tối. Bước nhanh và được bóng đêm che chở, tôi đi tới nhà máy. Tôi lần theo con đường hẹp men theo tường nhà máy và cuối cùng đã tìm được cái cửa sau mà Peggy đã kể với tôi. Tôi dừng bước và dỏng tai lên nghe ngóng. Tôi chỉ nghe thấy tiếng xe cộ chạy ầm ì phía ngoài xa lộ. Không khí nóng và ẩm làm cho mùi tanh tưởi của ếch thêm nồng nặc.
Tôi đè cả người vào cánh cửa đẩy vào. Cửa mở, tôi bước vào cái sân rộng. Toàn bộ khu nhà, cả văn phòng lẫn căn hộ của Weatherspoon đều chìm trong bóng đêm.
Tôi đi ngang qua sân, tới tòa nhà đặt các văn phòng và định mở cửa. Không ngờ cửa đã mở sẵn và tôi không khỏi thất vọng. Dưới luồng sáng của đèn pin, tôi thấy ba ổ khóa. Một ở trên cao, một ở giữa và một ở dưới thấp. Tất cả đều mở toang. Tôi đi vòng quanh nhà và phát hiện ra một cái cửa được khóa rất chắc. Tôi vòng ra sân và phát hiện một cái thang để lẫn trong cỏ. Tôi mang chiếc thang ra sau tòa nhà văn phòng, dựng vào tường và leo lên. Từ đó tôi leo xuống lan can của hàng hiên, may mắn có một cái cửa sổ để mở. Tôi rút then và dỏng tai nghe ngóng và mở toang hai cánh cửa ra. Tôi trèo vào phòng, mở cửa bước ra một hành lang tối, đẩy một cánh cửa khác và bước vào một phòng bày biện sang trọng.
Có các bậu cầu thang. Từ trên cao tôi chiếu xuống và thấy rằng cửa đã bị khóa. Đối với cái khóa này thì không thể tính chuyện dùng sức mà mở được. Thất vọng, tôi đành trở lai căn hộ của y. Tôi mở một cái tủ quần áo lớn, và lục soát tất cả các túi áo vest, nhưng không phát hiện thấy gì. Tôi tìm trong ngăn kéo, nhưng không thấy gì thú vị cả.
Cuối cùng sau hơn nửa giờ tìm kiếm, tôi mở một ngăn kéo nhỏ ở tủ đầu giường tìm được một gói capốt Anh quốc và một chiếc chìa khóa. Lòng tràn đầy hy vọng, tôi đi xuống và tra chìa vào ổ khóc. Chiếc cửa mở ra ngon lành và tôi bước vào. Tất cả các ngăn kéo đều khóa. Chỉ có những kẻ mở khóa chuyên nghiệp mới hòng mở nổi. Bỏ chiếc bàn ấy, tôi đi một vòng trong phòng và phát hiện thấy một chiếc cửa. Tôi mở ra và đi vào một lối hẹp.
Trước cửa là một thanh thép chắc có dây xich. Có hai ổ khóa. Không có chìa thì phải phá cửa mới hòng vào được.
Tôi đứng bất động nhìn cái cửa.
Rồi tôi nghe có tiếng ô tô đi tới. Tôi tắt ngay đèn pin và đi tới gần cửa sổ. Tôi nghe loáng thoáng tiếng người. Cổng nhà máy mở ra và một chiếc xe tải đi vào sân. Theo sau là một chiếc xe con tới đỗ bên cạnh.
Tôi nhìn rõ hai chiếc xe. Một gã nhỏ con, béo tròn, tôi nhận ra đó là Edundo Raiz. Hai tên khác cũng từ xe tải bước xuống. Đó là hai gã da đen đã phục nhà tôi dạo trước.
Tôi nhanh chóng mở cửa đi lên căn hộ, khóa cửa rồi lặng lẽ đi lên cầu thang. Tôi chui ra qua cửa sổ sau, leo xuống cầu thang mà tôi đặt ngay lúc trèo. Rút súng ra khỏi bao, tôi đi vòng quanh tòa nhà và dừng lại cạnh sân.
Văn phòng đã được bật sáng. Tôi nghe thấy có giọng nói. Ẩn mình trong bóng tối, tôi tiến ra sân và khi thấy đống thùng tônô chở ếch, tôi nấp vội vào đó. Có lẽ Peggy cũng đã từng nấp ở đây, từ chỗ này, có thể nhìn rất rõ những gì diễn ra trong văn phòng.
Một lúc sau Raiz đến bên bàn với một chùm chìa khóa trong tay. Ngồi vào bàn, y lần lượt mở các ngăn kéo.
Rồi gã mặc áo da dê bước ra, tay bê khệ nệ những chiếc hộp các-tông đến chiếc xe tải và xếp hàng vào đó. Tôi quan sát Raiz. Hắn xem xét cả đống giấy tờ vừa lấy ở một ngăn kéo và xem vội vã, thi thoảng lại để riêng một tập ra bên cạnh. Raiz lại mở một ngăn kéo khác lấy ra một tập giấy tờ nữa, xem xét rồi đặt chúng nó cũng vào chỗ giấy tờ y để riêng. Sau khi đã mở hết các ngăn kéo khác, xem qua, hắn đóng sầm lại. Tôi nghĩ hắn đã tìm được những thứ cần tìm.
Đoạn, hắn đứng dậy và tôi nghe thấy hắn hét:
- Thế nào, chúng mày còn chưa xong à?
Tôi chợt nhận ra đây là cơ may duy nhất của tôi. Tôi lập tức rời chỗ nấp nhảy tới sau chiếc xe tải, cuỗm gọn một hộp rồi lấy hết tốc lực chạy lại nấp sau những cái thùng chở ếch. Tất cả chưa hết ba giây.
Đúng lúc tôi vừa ngồi thụp xuống thì hai gã da đen lại lặc lè bê tiếp các hộp các-tông ra. Raiz rút khăn mùi soa lau kỹ các ngăn kéo và mặt bàn. Raiz cầm tập hồ sơ giấy tờ, tắt đèn, bước ra khóa cửa lại và rảo bước tới chỗ đỗ chiếc xe con.
- Dông thôi, - gã nói với hai tên kia.
Chiếc xe tải ra khỏi sân thì dừng lại, gã mặc áo da dê nhảy xuống khép cổng và tôi nghe thấy tiếng khóa bập lại. Tôi ngồi im sau đống thùng chở ếch tanh nồng nặc và hai tay ôm chặt chiếc hộp các-tông. Tôi đợi cho tiếng xe im hẳn, mới dám cử động.
Tôi đi ra theo lối cửa hậu và rảo bước về khách sạn.
Ông già Abraham tay đặt trên gối vẫn đang ngủ ngon lành. Tôi lay nhẹ để đánh thức ông dậy. Ông hé mắt nhìn tôi rồi chớp mắt ngồi thẳng dậy.
- Chắc là tôi vừa mới thiếp đi được một lúc. Anh có cần gì không?
- Tôi muốn một cái mở hộp.
- Anh bảo sao?
- Tôi muốn một cái mở hộp. Ông có không?
- Mở hộp à?
- Đúng thế, một cái mở hộp, - tôi nói một cách bình thản.
Ông già ngoài tám mươi này chắc vừa qua một giấc mơ ngọt ngào về quá khứ, về con cháu nên chưa tỉnh hẳn.
- Tôi cần một cái mở hộp, - tôi cố ý nói thật to.
- Để tôi đi kiếm cho anh. Anh có đói không? Tôi sẽ nấu cái gì đó cho anh ăn.
- Khỏi cần. Chỉ cần mang cho tôi chiếc mở hộp.
Ông già nặng nhọc đứng dậy, rồi lê chân đi vào nhà ăn. Tôi đứng đợi, năm phút sau Abraham quay lại.
- Bà đầu bếp chắc không đồng ý đâu, - ông nói và chìa cho tôi chiếc mở hộp đã han gỉ. - Vào giờ ăn sáng ngày mai, anh phải trả cho tôi đấy nhé.
- Ông yên tâm. Cám ơn ông Abraham. Ông ngủ tới mấy giờ?
- Ông Wvatt muốn mở cửa suốt đêm. Ông ấy bảo rằng làm sao biết khách đến lúc nào. Nhỡ có ai đó muốn trú đêm thì khách sạn phải phục vụ chứ.
- Chúc ông ngủ ngon, - tôi nói và vỗ nhẹ vào vai ông.
Tôi nhanh chóng vào thang máy và lên phòng. Tôi châm thuốc và khóa trái cửa lại rồi đặt chiếc hộp lên bàn. Đó là một hộp các-tông cứng rộng hai mươi, dài hai mươi và cao mười centimét. Bên trên có dán tấm nhãn:
Sản phẩm của nhà Morgan & Weatherspoon
Searle Florida
Gửi bà: Lucilla Banbury
1445 West Drive
Los Angeles
Tôi dùng con dao con rạch lớp băng dính trên hộp các tông và mở nắp ra. Hai hộp đồ hộp bằng kim loại sáng loáng được đặt cẩn thận trong hai ngăn. Tôi lấy ra một hộp và đọc tấm nhãn.
Đùi ếch
Đặc sản cao cấp. Làm theo hướng dẫn quí vị sẽ có một món ăn nhanh và ngon cho hai người.
Bản hướng dẫn sử dụng chính là những điều mà cô Cloe Smith đã cho tôi biết.
Tôi dùng cái mở hộp mở nắp, và nhìn thấy bên trong những chiếc đùi ếch tẩm bột rán vàng ươm xếp rất đẹp mắt. Trông đã thấy ngon rồi. Tôi dùng lưỡi dao nhíp lách tìm xung quanh hộp và tìm được một túi nylon nhỏ chứa đầy một chất bột màu trắng. Tôi lấy nó ra khỏi hộp và đưa vào phòng tắm rửa sạch.
Tôi đã ngờ về thứ bột trắng này, nhưng tôi muốn thật chắc ăn. Tôi đặt túi bột vào ví rồi cầm lấy chiếc hộp trên bàn và mặc dù rất tiếc, đổ hết vào hố xí cùng với cái nhãn hộp rồi xả nước.
Đoạn tôi mở cửa sổ, và khi tin chắc không có ai trên đường phố, tôi lấy sức quẳng chiếc hộp ra thật xa. Tôi đậy nắp hộp các-tông, bên trong chỉ còn duy nhất một hộp đùi ếch, và đặt nó vào tủ quần áo. Cho dù chưa tìm được Johnny, nhưng ngày làm việc của tôi quá ư là hiệu quả.
Tôi tắm rửa và lên giường đi ngủ.
- Chương 15:
Nguyên lãnh đạo phòng thí nghiệm của cảnh sát ở Paradise City là Harry Meadows, một người đàn ông cao gầy và đã ở tuổi xấp xỉ thất tuần. Khi ông về hưu, đại tá Parnell đã đề nghị ông lãnh đạo phòng thí nghiệm của hãng, một phòng thí nghiệm được trang bị cũng không kém phần hiện đại. Meadows đã không bỏ lỡ cơ hội đó. Ông đã từng nổi tiếng là một bác sĩ giỏi nhất ở Florida và mặc dù tuổi cao, ông vẫn là một chuyên gia cự phách mà người kế vị ông ở phòng thí nghiệm của Sở cảnh sát vẫn thường xuyên phải tới tham khảo ý kiến.
Tôi tới đúng lúc Meadows đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu lớn, mắt dán vào kính hiển vi.
Tôi từ Searle phóng thẳng đến đây mang theo hộp đùi ếch.
- Chào bác Harry, tôi lao vào như cơn gió. - Cháu có việc nhờ bác đây. (Ông ra hiệu cho tôi lùi xa ra, mắt vẫn không rời kính hiển vi). Bác Harry! Việc gấp và quan trọng lắm.
Ông thở dài, quay người trên ghế và mỉm cười với tôi.
- Bọn trẻ các cậu lúc nào mà chả gấp. Có chuyện gì vậy nào?
Tôi rút ví lấy ra túi nylon nhỏ và đặt trên bàn ông.
- Bác có thể phân tích giúp cháu cái này, được không? Về nguyên tắc đây là một nguyên liệu để pha nhanh nước chấm ăn cùng với món đùi ếch.
- Thật hả? Một ý tưởng tuyệt vời nếu thứ nước chấm này là ngon thật. Bác cũng khoái món đùi ếch lắm. Cháu tìm đâu ra cái của quý này, Dirk?
- Rất có thể đây không phải là nước chấm đâu, bác Harry ạ. (Tôi nói rồi bước nhanh ra cửa). Cháu rất gấp. Cháu sẽ ngồi đợi ở văn phòng. Bác có thể gọi điện cho cháu chứ ?
Ông gật đầu và cầm lấy cái túi. Về tới văn phòng, tôi thấy Chick Barley không có nhà. Trong suốt hành trình từ Searle về Paradise City tôi đã suy nghĩ xong xuôi về bản báo cáo mà tôi sẽ phải trình cho đại tá Parnell. Tôi ngồi xuống và lấy máy chữ ra gõ. Vừa mới gõ được một nửa thì Harry gọi điện tới.
- Tới đây ngay, Dirk, - ông nói cụt lủn.
Tôi để bản báo cáo trên máy và chạy theo hành lang dài dẫn đến phòng thí nghiệm.
- Chuyện này là thế nào ? - Harry hỏi tôi bằng một giọng nghiêm khắc. - Cậu đã tìm thấy nó ở đâu?
Tôi đóng cửa và bước tới gần ông.
- Nó chứa gì ạ?
- Năm mươi phần trăm là heroin tinh khiết và năm mươi phần trăm là glucô.
- Chính cháu cũng đã ngờ như thế. Bác có biết giá thị trường là bao nhiêu không?
- Một túi như thế này có giá ba trăm đôla.
Tôi nhẩm tính nhanh trong óc. Mỗi hộp một túi, mỗi các-tông hai hộp và khoảng năm trăm hộp các-tông. Vị chi một xe hàng trị giá ba trăm ngàn đô. Nếu mỗi tháng giao một xe (nhưng chắc là hơn), thì trong trường hợp này, Weatherspoon sẽ kiếm ba triệu sáu trăm ngàn đô một năm.
- Bác nắm chắc giá ấy chứ, bác Harry?
Ông gật đầu.
- Đây là sản phẩm chất lượng tuyệt hảo. Văn phòng chống ma túy hàng tháng đều có gửi cho bác các con số. Túi này trị giá ba trăm đô.
- Cám ơn bác Harry. Cháu đang bận thảo báo cáo gửi đại tá. Cháu chưa thể nói hết với bác được. Bác cứ giữ cho cháu túi bột đó. Sau này có thể dùng làm vật chứng.
Tôi chia tay ông và chạy về văn phòng để hoàn tất bản báo cáo. Xong xuôi, tôi cho vào phong bì, rồi mang theo cả hộp các-tông chứa hộp đùi ếch tới gặp Glenda Kerry.
Glenda là trợ lý riêng của đại tá. Cao lớn, da nâu, xinh đẹp, tuổi ngoài ba mươi, mái tóc uốn miễn chê, ăn mặc nghiêm chỉnh, cô có vẻ ngoài đúng như con người thật của mình: hiệu quả và đầy tham vọng.
Khi tôi bước vào văn phòng, Glenda đang ngồi lật giở hồ sơ.
- Chào Glenda! (Tôi đặt hộp các-tông lên bàn). Chị làm ơn cất giùm cái hộp vào tủ sắt. Giá đắt lắm đấy. Và cả cái phong bì này nữa.
- Cái gì thế này? Anh vẫn theo đuổi vụ Jackson đấy à?
- Tất nhiên rồi. Đại tá giao cho tôi làm chuyện này và tôi đang làm.
- Anh tiêu nhiều tiền quá rồi đấy. (Glenda luôn luôn đánh giá kết quả theo số tiền chi phí). Anh từ đâu về thế?
- Tất cả ở trong bản báo cáo này. Nhưng gửi cho đích thân đại tá đấy nhé. Đây là một vụ lớn, Glenda ạ. Chớ có mà thọc những ngón tay xinh xẻo của chị vào đấy.
Chị ta nhún vai.
- Bây giờ anh đi đâu?
- Ngày mai khi đại tá quay về, chị sẽ biết. Ngày mai ông ấy về, phải không?
- Ông ấy nhắn thế. Từ khi ông ấy đi Washington tôi chẳng nhận được tin tức gì.
- Thôi, nhờ chị cất cái hộp các-tông và cái phong bì vào tủ sắt cẩn thận hộ.
Tôi chào Glenda rồi đi ra, nhưng vừa tới hành lang thì gặp Terry OBrien từ thang máy bước ra.
- Dirk, mình có tin cho cậu đây.
Chúng tôi vội vã về căn phòng của tôi.
OBrien đúng là tạng người Ailen: vóc dáng như lực sĩ, người thấp hơn trung bình, mũi tẹt, nụ cười vui vẻ và đôi mắt xanh lanh lợi.
- Cậu đã tìm được gì vậy, Terry?
- Bà Phyllis Stobart. Tên thời con gái: Phyllis Lowery. Tuổi: bốn hai'
OBrien đọc dõng dạc cho tôi ghi vào sổ. - Tyson đã cung cấp cho mình những thông tin này, có thể nó sẽ có ích cho cậu.
Ritchie Tyson là người đứng đầu một hãng thám tử tư nhỏ nhưng rất uy tín ở Jacksonville và chúng tôi đôi khi vẫn giúp đỡ nhau. Tôi nhăn mặt.
- Thế anh ta đòi bao nhiêu?
- Mình đã bắt anh ta hạ giá xuống còn một trăm đô. (OBrien nhìn tôi vẻ dò hỏi). Thế được không?
- Tất cả còn phụ thuộc vào những điều anh ta cung cấp cho cậu.
- Theo Tyson, khoảng bốn mươi năm trước, ông bà Lowery do không có con nên đã nhận một bé gái làm con nuôi. Lowery, là một trong số những người đàn ông rất đáng kính, lãnh đạo một hãng du lịch rất phát đạt. Phyllis - tên đứa con gái nuôi - đến ở với họ khi đã được bốn tuổi. Người ta không biết bố mẹ cô bé là ai. Phyllis bị bỏ rơi trước cửa văn phòng chuyên lo các thủ tục về việc nhận con nuôi. Quả thật, vợ chồng ông Lowery đã không gặp maỵ Lớn lên, cô bé rất trái tính trái nết: chẳng học hành gì, chỉ chạy theo lũ con trai. Lại còn ăn cắp trong các cửa hàng tự chọn, thường xuyên có chuyện với cảnh sát, và đủ thứ chuyện đại loại như vậy. Vẫn theo Tyson, gia đình Lowery chẳng thiếu thứ gì, nhưng họ không hạnh phúc. Đứa con nuôi trở thành kẻ phạm pháp. Nó đã phải ngồi bóc lịch trong tù một thời gian, rồi bỏ trốn, lại bị bắt lại và cuối cùng, cũng được tha về. Hồi đó nó khoảng mười bảy tuổi. Một tuần sau khi trở về nhà Lowery, nó lại bỏ đi. Gia đình buộc phải báo với cảnh sát, mặc dù chẳng có gì thương tiếc việc bỏ đi của nó. Cảnh sát cũng tiến hành tìm kiếm, nhưng không có kết quả. Và rồi, một tối, khoảng một chục năm trước, con bé lại trở về nhà Lowery. Họ đã kể với Tyson - anh ta là bạn họ và vừa mới mở hãng - rằng không sao nhận ra con bé nữa. Nó dữ dằn và thô lỗ khiến cặp vợ chồng già thấy sợ. Nó yêu cầu phải đưa cho nó năm trăm đô. Nghĩ rằng nó đang phải trốn tránh, nên họ đã đưa tiền và nó đi ngay. Rồi từ đó không thấy dấu vết gì nữa. Ông bà Lowery mất đã lâu. Tin tức đầu tiên mà người ta biết về Phillis sau này là đám cưới của cô ta với Stobart năm ngoái.
- Nghĩa là cô ta đã mất hút trong vòng mười hai năm?
- Đại khái như vậy.
- Mất tích như thế kể cũng hơi bị lâu, phải không? (Tôi ngẫm nghĩ). - Terry này, cậu giúp mình đến Secomb tìm hiểu về hãng chuyên cung cấp vũ nữ thoát y cho các hộp đêm nhé. Mình cần một bức ảnh, đó là Stella Costa, người đã làm việc một số năm ở Câu lạc bộ Skin. Bà ta sống ở nhà số 9 phố Macey. Hãy kể rằng bà ta vừa đươc hưởng một tài sản thừa kế nhỏ. Nói chung sẽ chẳng có gì khó khăn đâu. Nhưng nên nhớ là không được đặt chân vào Câu lạc bộ Skin đâu đấy nhé. Cậu hiểu chứ?
- Đồng ý. Mình sẽ đi làm cho cậu. (Nói rồi Terry đi ra).
Tôi ở lại mấy phút gõ thêm phần báo cáo của OBrien và đưa đến cho Glenda.
- Đây là các nguồn tin khác thêm vào bản báo cáo của tôi gửi cho đại tá, - tôi nói.
Glenda ngả người trên lưng ghế.
- Tôi vừa được biết đại tá đã trở về Washington. Và thứ hai tuần sau mới về đây, - cô ta nói và cầm lấy bản báo cáo.
- Thật là một tin tuyệt vời! Thế là tôi còn những năm ngày nữa.
Chia tay Glenda tôi chạy vội ra chỗ đỗ xe. Cần phải tới gặp Howard và Benbolt. Trên đường tôi dừng xe ăn một chiếc bánh nhồi thịt băm và một cốc bia. Tôi đến văn phòng Benbolt vào lúc hơn hai giờ chiều.
Bà già to béo ngồi trực nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.
- Tôi muốn gặp ông Benbolt, - tôi nói.
- Anh có hẹn trước à? Hình như anh là Wallace, phải không ?
- Tên tôi thì đúng, nhưng hẹn trước thì không. Ông ấy nhất định sẽ tiếp tôi.
- Ông Benbolt vừa mới đi ăn trưa về.
- Thì tôi cũng mới ăn trưa xong. (Tôi mỉm cười với bà già). Bà cứ làm ơn báo với ông ấy là tôi đang có mặt ở đây.
Bà ta lườm tôi một cái rồi ấn nút.
- Thưa ông Edward, có ông Wallace ở hãng Parnell đang đợi, - bà ta thông báo.
- Cho ông ấy vào gặp tôi ngay, - tôi nghe rõ giọng nói chân thành của Benbolt.
Bà già nhìn tôi.
- Tôi nghĩ chắc là ông đã biết đường vào.
- Vâng, cửa thứ ba bên phải hành lang.
Bà già không thèm đáp lại, làm ra vẻ chúi mũi vào tập hồ sơ. Tôi cảm thấy thương bà ta. Bà ta đã già lại béo và chắc là chẳng có ai yêu thương. Chút ít quyền lực mà bà ta có được để bảo vệ ông chủ của mình cũng đang mất dần. Chả còn bao lâu nữa, bà ta sẽ phải một thân một mình sống ở một căn phòng thuê với một con mèo làm bạn.
Edward đang ngồi sau bàn với gương mặt đỏ au có vẻ no saỵ Ông ta nở một nụ cười chuyên nghiệp chào tôi, rồi đứng dậy bắt tay và ra hiệu mời tôi ngồi xuống.
- Thế nào, ông Wallace, - ông ta nói sau khi chúng tôi đã yên vị. - Ông có tin tức gì mới không?
- Về chuyện gì mới được chứ ? - Tôi hỏi.
- Trong cuộc gặp gỡ của chúng ta lần trước, ông có nói rằng ông đang tìm đứa cháu nội của Frederick Jackson, phải vậy không ? (Tôi hiểu rằng chất cay của bữa ăn trưa vẫn đang làm cho đầu óc ông ta còn lơ mơ).
- Theo lần gặp nhau trước thì chính ông mới là người đang tìm Johnny chứ đâu phải tôi. Ông có nhận được tin tức gì từ những thông báo đăng trên báo không?
- Không nhận được gì cả. Theo lệnh của ông Weatherspoon chúng tôi đã chấm dứt việc tìm kiếm. Hỏi để biết vậy thôi, thế ông đã tìm được thằng bé chưa? (Ông ta mở nắp hộp thuốc). - Ông hút một điếu chứ?
- Tôi chưa tìm thấy, nhưng vẫn tiếp tục tìm. Không, cám ơn ông.
Benbolt chọn một điếu, cắt đầu rồi châm hút.
- Một nhiệm vụ khó đấy.
- Ông đã biết chuyện gì xảy ra với Weatherspoon chưa?
Gương mặt ông ta lạnh băng tới mức mà một gã đô tùy cũng phải kính nể.
- Rồi. Tôi mới biết sáng nay. Thật là một bi kịch! Ông ta còn trẻ thế mà…
- Chẳng có ai sống mãi được. Đời là thế mà, - tôi nói và rút thuốc lá châm hút. - Tôi nghĩ chắc ông sẽ là người quản lý tài sản của Weatherspoon chứ?
- Đúng vậy.
Tôi chờ đợi. Nhưng có vẻ như ông ta quan tâm tới điếu xì gà hơn là Weatherspoon.
- Có một nhà máy đóng hộp ếch và một cửa hàng thực phẩm, - tôi nói. Và sau đó còn tiền bạc nữa.
- Tôi những tưởng là ông chỉ được giao tìm thằng cháu nội của Jackson. Nhưng hôm nay mới vỡ lẽ là ông còn tìm kiếm cả những thông tin có liên quan tới tài sản của ông Weatherspoon nữa kia đấy. Chuyện này đâu có liên quan gì tới việc điều tra của ông. Tôi không có thời giờ để tiếp ông thêm nữa.
- Ông đã bao giờ tới Searle chưa, ông Benbolt?
- Searle ấy à? Chưa một lần trong đời.
- Xin ông một phút, - tôi nói và mỉm cười cởi mở và thân thiện. Tôi đã tiến hành điều tra ở Searle để tìm kiếm Johnny Jackson. Và tôi phát hiện được những bằng chứng mà nếu Weatherspoon còn sống, ông ta cầm chắc sẽ ngồi bóc lịch không dưới mười lăm năm.
Ông ta há hốc mồm nhìn tôi.
- Những bằng chứng nào?
- Tôi chưa thể nói với ông chừng nào tôi chưa kết thúc điều tra và báo cáo với đại tá Parnell để ông ấy giao vụ này cho cảnh sát bang. Nhưng tôi có thể đảm bảo với ông rằng tôi không đùa đâu. Với một chút kiên nhẫn nữa tôi cũng có thể biết được tài sản của Weatherspoon lên tới bao nhiêu. Nhưng thời gian quá gấp, tôi hy vọng ông sẽ hợp tác với chúng tôi.
- Ông muốn nói rằng ông Weatherspoon là một tên tội phạm?
- Ông ta là trung tâm của một mạng lưới buôn bán ma túy. Hiện tại tôi chỉ có thể nói với ông như vậy.
- Lạy Chúa! - Benbolt để rơi cả tàn thuốc trên chiếc áo gilê đắt tiền. - Ma túy?
- Chuyện này tạm thời chỉ giữa hai chúng ta. Tài sản của Weatherspoon cỡ bao nhiêu?
- Cỡ nửa triệu. Nhưng tất cả còn phụ thuộc vào chuyện nhà máy và cửa hiệu thực phẩm sẽ được bán với giá bao nhiêu. Nói thực tình, tôi đã rất ngạc nhiên về nguồn lợi mà cái máy đó mang lại. Dây dưa với ma túy, thật là một chuyện khủng khiếp. Tôi nghĩ ông hiểu về điều ông vừa nói đấy chứ?
- Tôi đã có đủ những bằng chứng cần thiết. Nhưng ông ta không phải là người duy nhất can dự vào vụ này, vì vậy tôi còn phải tiếp tục điều tra.
Benbolt nhặt điếu xì gà lên và khi thấy nó đã tắt, ông ta bật lửa châm lại.
- Tôi quả thật không hiểu. Làm sao mà một nhà máy đóng hộp đùi ếch lại có quan hệ với ma túy được?
- Đây là thủ đoạn lá nho rất khôn khéo.
- Ý ông muốn nói gì?
- Nhà máy đóng ếch chỉ là tấm bình phong che đậy của Weatherspoon. Ai sẽ là người kế thừa tài sản của ông ta?
Benbolt ngồi lặng một phút nhìn điếu xì gà, vẻ lưỡng lự rồi nhún vai.
- Do tất cả những điều ông vừa thông báo cho tôi, hơn nữa thân chủ tôi cũng đã chết rồi, để giúp cho công việc điều tra của ông, tôi nghĩ sẽ không phải là tiết lộ bí mật nghề nghiệp nếu tôi cho ông biết những điều đã xảy ra một tuần trước đây. Ông Weatherspoon đã tới tìm tôi, - Benbolt nói tiếp. - Trông ông ta có vẻ không được bình thường. Có cảm tưởng rằng như ông ta đang ốm hay mất ngủ. Đó là điều ít khi xảy ra với ông ta. Ông ta nói với tôi rằng ông ta sẽ thôi không kinh doanh nữa. Quyết định của ông ta khiến tôi ngạc nhiên, vì ông ta chưa tới năm mươi. Weatherspoon muốn tôi bán tất cả các cổ phiếu của ông ta. Tôi có nói với ông ta rằng giá cả trên thị trường chứng khoán đang rất hạ, nhưng ông ấy nói rằng ông cần tiền mặt ngay. Ông cũng đề nghị tôi bán luôn cả cửa hàng thực phẩm ở Searle với giá nào mà tôi có thể. Tôi đánh hơi thấy ngay và có linh cảm rằng thân chủ tôi đang chịu một áp lực rất lớn. Tôi hỏi ông ta có ý định bán nhà máy đóng hộp không thì ông ta trả lời gắt rằng việc ấy để tự ông ta lo. Khi đó tôi bèn đặt một câu hỏi mà tôi cứ bận tâm từ khi ông ấy là thân chủ của tôi. Tôi nhắc ông ta là chưa thảo di chúc. Ông ta đáp ngay rằng ông không có gia đình và chẳng cần phải làm di chúc. Tôi cũng cho ông ta biết nếu một thân chủ của tôi có tài sản tới nửa triệu đô mà chết đột tử sẽ để lại rất nhiều điều về mặt pháp lý. Ông ta bảo tôi rằng ông không hề nghĩ tới chuyện đó. Rồi ông ta nói thêm, ông muốn toàn bộ tài sản của ông và cả cửa hàng thực phẩm nữa sẽ thuộc về cái cô Peggy nào đó ở Searle.
- Ông ta có giải thích gì với ông không? - Tôi hỏi.
- Tôi có hỏi cô Peggy là ai. Thì ông ta trả lời rằng đó là tình nhân của ông ta và ông ta đã cư xử không tốt với cô ấy. Vả lại ông không có ai để kế thừa thì tại sao lại không phải là cô ấy? Rồi ông ta nhếch mép cười mà bảo rằng nói thế thôi chứ ông ta đâu đã có ý định chết. Nhưng nếu ông ta chết, thì ông ta muốn Peggy sẽ được kế thừa tất cả. Như vậy là cô Peggy sẽ được hưởng thừa kế ít nhất là nửa triệu đôla.
- Thế cô ấy đã biết chưa?
- Thì ông Weatherspoon chỉ vừa mới mất hôm qua. Phải đợi cho tới lúc bản di chúc có hiệu lực đã chứ. Tôi có ý định tuần này sẽ tới Searle báo cho cô ấy biết.
- Thế còn nhà mấy ếch? Nếu có ai đó mua thì liệu số tiền bán được có nằm trong tài sản của Weatherspoon và cô Peggy có được hưởng không?
- Tất nhiên.
- Nhưng nếu giả dụ như ông ta bán nhà máy thì ông liệu có biết không?
- Không. Nhưng ngay khi bản di chúc có hiệu lực, tôi sẽ tới nhà máy để xem có chuyện gì xảy ra.
- Nhà máy không lâu nữa sẽ được bán. Ông phải theo dõi thật sát sao, ông Benbolt ạ. Ông nói rằng ông Weatherspoon đã mang hết giấy tờ có liên quan tới nhà máy đi. Thế bây giờ chúng ở đâu?
- Tôi cũng không biết. Để tôi hỏi ngân hàng của ông ta xem.
- Ông sẽ làm điều đó và báo cho tôi biết chứ?
- Tôi sẽ báo. Có thực sự là ông muốn nói rằng ông Weatherspoon là kẻ buôn bán ma túy?
- Đúng vậy.
- Chương 16:
- Liệu ông có nên báo cho cảnh sát không?
- Nếu tôi làm điều đó, họ sẽ tới đè lưng ông đấy. Các nhân viên cơ quan phòng chống ma túy không phải là những tay ngon lành gì đâu.
- Tôi sẽ chỉ nhắc lại những gì mà tôi đã nói với ông, - Benbolt nói vẻ lúng túng.
- Hiện thời ông là người đại diện cho cô Peggy, chắc chắn sẽ có ai đó tới mua nhà máy. Mà không lâu đâu. Đó là một tên buôn bán ma túy nữa. Nếu ông phát hiện ra nhân thân của hắn thì chắc hẳn các nhân viên của cơ quan phòng chống ma túy sẽ có thiện cảm với ông. Vì vậy hãy tìm hiểu và báo ngay cho tôi biết biết người mua là ai. Ông đồng ý chứ?
- Tôi vẫn thấy rằng nên nói chuyện này với cảnh sát.
- Hiện thì chưa nên. Tôi muốn tự mình sẽ giải quyết vụ này. Hãy hợp tác với tôi, ông Benbolt ạ.
Ông Benbolt ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu.
- Xét cho cùng thì bản di chúc còn chưa hiệu lực. Tôi sẽ tìm hiểu. Tôi có thể liên lạc với ông ở đâu?
- Hãy nhắn lại cho tôi theo địa chỉ trên danh thiếp này, tôi sẽ tới ngay. Đừng có làm gì vội vàng cả. Tôi còn có thêm một số bằng chứng nữa. Đừng báo cho cảnh sát vội. Nếu không họ sẽ làm lộn tùng phèo cả lên và khi đó sẽ chẳng tìm thấy gì nữa đâu. Ông hiểu chứ?
- Để xem tôi sẽ làm được gì.
Tôi có ấn tượng rằng Weatherspoon đã cảm thấy sợ. Y định chuồn cùng với toàn bộ tài sản đã được chuyển đổi thành tiền mặt. Hắn mang theo rìu tới nhà Jackson để tìm số tiền để dành của ông già. Có thể là y đã tìm được. Trong khi hắn lục soát, có một kẻ khác cũng đã tới đó, bắt quả tang và đánh cho y ngất đi. Rồi tên đó kéo xác ra đầm ếch và quẳng xuống đó.
Tôi lấy máy đánh chữ ra ngồi đánh những thông tin mới nhất sẽ báo cáo với đại tá. Đúng lúc tôi đang cho vào phong bì để gửi Glenda thì Terry bước vào.
- Có tin cho cậu đây, - cậu ta reo lên rồi thả người xuống ghế. - Mình đã tới gặp Bernie Isaacs, chủ một hãng chuyên cung cấp gái nhảy. Trong đó có cả Stella Costa.
- Khá lắm, Terry ạ. Thật là một cú ngoạn mục. Rồi sao?
OBrien ném một phong bì xuống bàn.
- Cậu xem đi.
Tôi lấy từ trong phong bì ra một bức ảnh 12 * 16 in trên giấy láng bóng. Trong ảnh Stella chỉ mặc độc một chiếc quần lót bé xíu. Người đàn bà này đúng là biểu tượng của sự dâm đãng. Ả ngồi dạng hai chân ra, tay giơ lên trên đầu và gương mặt đầy vẻ mời mọc. Tôi ngắm nghía một lúc lâu, rồi đặt bức ảnh xuống bàn và nhìn OBrien.
- Còn gì nữa không, Terry?
- Phải trả giá đắt đấy, Dirk ạ. Thằng khốn đó đòi tận một trăm đô, nhưng mình cò cưa chỉ phải trả năm mươi thôi.
- Hắn ta có nói gì không?
- Cầm năm mươi đô xong, hắn mới đưa bức ảnh rồi câm như hến. Lại phải tòi ra 50 đô nữa hắn mới chịu mở miệng.
- Thế hắn đã nói gì với cậu?
- Cô vũ nữ này tới tìm hắn thời cô ta còn trẻ, theo hắn thì đâu như mười bảy mười tám gì đó. Cô ta còn chưa có kinh nghiệm gì, nhưng hắn thấy thích. Thế là hắn tìm cho cô ta những việc phụ ở các hộp đêm nhỏ. Phải nói là cô ta chịu khó học nghề lắm. Cô ta làm như vậy cho hắn mười năm. Lúc đó đã thạo nghề lắm rồi. Khách hàng tốt nhất của hắn hồi đó là Edundo Raiz, chủ của Câu lạc bộ Skin. Hắn đã xin cho Stella vào làm việc ở đó. Theo như Bernie nói thì đối với cô ta, đó là sự nâng cấp quý giá. Cô ta làm việc cho Raiz trong suốt tám chín năm gì đó. Và rồi năm ngoái, cô ta tới gặp Bernie và nói với hắn rằng cô ta sẽ bỏ nghề. Bernie tin cô ta nói sự thật, vì vào thời gian đó cô ta đã ngoài bốn mươi và nhan sắc đã bắt đầu tàn. Sau đấy cô ta mất tăm. Và hắn không bao giờ gặp lại và nghe nói gì về cô ta nữa.
- Bernie có nói bà ta có con không?
- Có. Hắn nói rằng thằng bé là mối trở ngại của cô ta. Stella không thể làm việc vào buổi chiều vì phải chăm nó. Bernie rất hiểu, vì hắn có tới cả chục đứa con. Hắn còn bảo rằng nếu không có thằng bé, cô ta chắc sẽ còn kiếm được nhiều hơn.
- Cậu hãy nhìn thật kỹ người đàn bà này xem. Mà đừng chỉ có dán mắt vào bộ ngực đấy. Hãy tập trung chú ý vào khuôn mặt.
Cậu ta nhìn bức ảnh một lát rồi ngơ ngẩn nhìn tôi.
- Làm sao mà có thể rời mắt khỏi bộ ngực đó được.
- Nếu có thể cậu hãy vận hết nội công thử quan sát lại bức ảnh cưới của vợ chồng Stobart mà Fan đã đưa cho cậu xem. Cậu có thấy sự giống nhau giữa bà Stobart và Stella Costa không?
Cậu ta há hốc mồm nhìn tôi rồi quay sang xem xét các bức ảnh.
- Có thể. Đúng, rất có thể. Cậu muốn nói rằng cô vũ nữ này chính là bà Stobert?
- Mình chưa biết.
- Thật vậy sao?
- Mình không thể khẳng định được, nhưng sự giống nhau đúng là lạ kỳ.
Tôi xem đồng hồ. Lúc này đã hơn sáu giờ chiều.
- Mình có một việc khác cho cậu đây, Terry ạ. Cậu hãy đi ăn tối rồi làm một vòng qua các câu lạc bộ pê-đê ở Secomb. Trước hết hãy tới gặp Flossie Atkins. Hắn ta hành nghề này nhiều năm rồi. Nếu không tìm thấy gì hãy tới các chỗ khác. Cậu hãy dò hỏi xem có ai đó mới gặp một thanh niên tóc vàng, ăn mặc kỳ quặc và cặp kè với một gã da đen không. Anh ta tên là Johnny. Cha anh ta được tặng Huân chương Danh Dự. Biết đâu cậu ta chả khoe khoang với bạn bè. Đồng ý chứ?
OBrien nhăn mặt.
- Nếu cậu đã bảo thì làm thôi, nhưng quả thật là mình chẳng muốn tẹo nào.
- Thôi thế nhà. Mà không được chi một xu nào đâu. Hãy kể rằng Johnny được kế thừa một tài sản nhỏ, vì vậy cậu muốn tìm gặp anh ta.
- Bắt đầu từ chỗ Flossie Atkins, phải vậy không?
- Hãy tìm suốt đêm nếu cần. Ngay khi có tin quan trọng thì gọi điện ngay cho mình.
- Chắc là lúc đó cậu đang yên giấc trên giường.
- Cũng có thể. Hãy gọi điện về nhà cho mình.
- Đồng ý.
Sau khi ngồi suy ngẫm một lát, tôi quyết định đã đến lúc phải gặp bà Phyllis Srobart.
Trở về nhà, sau khi tắm rửa, mặc một bộ complê rất đẹp, tôi ghé vào một nhà hàng hải sản ăn no căng món tôm hùm rưới nước sốt ớt xanh để tăng thêm sức lực. Khi đồng hồ chỉ bảy giờ ba mươi tối, tôi ngồi vào xe và phóng thẳng tối đại lộ Broadhurst.
Tôi đỗ xe dưới bóng cây, rồi đi gần tới cổng. Từ đây tôi có thể nhìn rõ ngôi biệt thự. Đó là một tòa nhà hai tầng, có lẽ có tới sáu phòng ngủ và một phòng khách có thể chứa thoải mái hàng trăm khách một lúc. Cửa nhà bằng gỗ sồi được chiếu sáng bằng hai ngọn đèn ô tô. Phòng khách và hai căn phòng khác vẫn sáng đèn. Một chiếc Rolls sơn màu be và nâu đang đợi bên thềm. Tôi thoáng thấy một bóng người lướt qua một cửa sổ tầng trên: bóng của một người đàn bà.
Phía sau tôi chợt vang lên giọng đanh chắc của một gã cớm.
- Anh làm gì ở đây hả?
Tôi nhảy lùi lại cứ như bị một thanh sắt nung đỏ gí vào người. Tôi thận trọng quay đầu lại. Dưới ánh trăng mờ, tôi nhìn thấy một gã lực lưỡng đội mũ cảnh sát. Gã đứng phía sau cách tôi khoảng một mét, tay lăm lăm khẩu súng ngắn.
Tôi chợt thấy nhẹ người khi nhận ra người mặc sắc phục đó.
- Trời ơi, Jay! - Tôi reo lên. - Suýt chút nữa cậu làm mình vãi linh hồn.
Anh ta nhìn tôi, bỏ súng vào bao rồi mỉm cười.
- Thì ra là cậu à? Có chuyện gì vậy?
- Đứng ngắm dinh cơ nhà Stobart một lát. Đẹp đấy chứ, hầy?
- Khỏi phải nói rồi. Có chuyện gì xảy ra với nhà Stobart à?
- Người mà mình quan tâm là bà chủ. Mình cần nói chuyện với bà ấy.
- Để làm gì?
- Cậu nhất định phải biết à?
Vào mỗi dịp Noel, đại tá đều gửi cho anh ta một con gà tây mái và chai uytski để làm lễ Tạ Ơn. Anh ta toét miệng cười.
- Ồ, không.
- Cậu có quen bà ấy không?
- Mình gặp bà ấy thường xuyên. Kênh kiệu lắm. Mình chả thèm làm quen.
- Mình cần nói chuyện với bà ta khi không có mặt chồng. Lúc nào là thích hợp nhất?
- Ngày nào cũng như ngày nào, đều đặn như giấy kẻ khuôn nhạc, khoảng một giờ nữa, bà ta sẽ cùng chồng từ đây tới Câu lạc bộ Country. Ông chồng để bà ta ở đó rồi đi tới Câu lạc bộ Poker. Khoảng một giờ sáng ông ta đón vợ về nhà ngủ.
- Xem ra họ không hợp nhau nhỉ?
- Cậu thấy thế à? Mà ai có thể hợp với cái lão Herbert Stobart ấy. Một cục phân, không hơn không kém.
- Có ai khác sống ở đây nữa không?
- Nhiều. Một gã da đen to bự lái xe cho Stobart. Kiêm luôn vệ sĩ. Rồi một cô gái thi thoảng lại tới mượn xe bà vợ.
- Cô ta là ai?
- Mình không biết. Trông sexy lắm. Tóc đen, ngực đẹp. Xem ra thân với bà Stobart lắm.
- Cám ơn Jay.
Để tỏ lòng biết ơn, tôi lấy ra tờ hai mươi đô và khi chúng tôi bắt tay nhau, tờ giấy bạc đã đổi chủ.
Tất cả những người làm việc cho hãng Parnell đều là thành viên của câu lạc bộ Country, câu lạc bộ thuyền buồm, của Casino và nhiều hộp đêm sang trọng khác. Ngồi trên chiếc ghế dài ở hàng hiên lớn của câu lạc bộ, với ly uytski trong tay, tôi thấy chiếc Rolls sơn màu be và nâu dừng ở trước cửa ra vào. Một người đàn bà bước xuống, giơ tay vẫy rồi bước lên bậc tam cấp. Tôi hy vọng nhìn thấy mặt Herbert Stobart, nhưng chiếc xe đã phóng đi trước khi tôi kịp đứng dậy.
Bà ta đi vào tiền sảnh, tôi uống cạn ly rượu rồi vội vã bám theo ngay. Bà ta đứng nói gì đó với Johson, người gác cửa câu lạc bộ, một ông già da đen có mái tóc bạc xoăn tít. Ông ta có vẻ cung kính lắm, rồi bà ta khẽ gật đầu với ông ta, đi qua phòng khách lớn và bước ra sau hàng hiên nơi phục vụ bữa tối.
Tôi bước lại gần. Đứng bên cạnh, tôi mới thấy trước kia chắc bà ta phải đẹp mê hồn. Không một khoảnh khắc nào tôi có thể rằng người đàn bà mà tôi đang ngắm nhìn đây lại là Stella Costa, người đã từng một vũ nữ thoát y và là một con điếm. Tôi quyết định thử vận may:
- Xin lỗi được hỏi bà có phải là bà Stobart? - Tôi hỏi và dừng lại trước bàn.
Bà ta nhìn như xuyên qua người tôi, rồi mỉm cười. Gương mặt nặng nề của bà ta biến đổi hẳn.
- Chính tôi đây. Thế anh là ai?
- Dirk Wallace, - tôi nói. - Những người đàn bà đẹp không bao giờ nên ngồi một mình cả. Liệu tôi ngồi cùng không làm hỏng buổi tối của bà chứ hay tôi phải ngồi sang bàn khác?
- Ồ không, anh đừng đi. Tối nay mọi người đều có đôi cả. Tôi thường xuyên tới đây, nhưng sao không gặp anh nhỉ?
- Thi thoảng tôi mới ghé qua. Tôi bận lắm.
- Bận cả buổi tối sao?
Bà ta nhìn tôi vẻ ngạc nhiên.
- Không may lại đúng như vậy, - tôi nói và mỉm cười thân thiện. - Ở đây đông người thật.
Bà ta nhún vai.
- Lúc nào chả thế. Thế anh làm nghề gì, Wallace?
- Tôi là điều tra viên.
Nụ cười trên mặt bà vụt tắt.
- Điều tra viên à? Hay lắm. Thế anh điều tra về cái gì?
- À, đủ mọi thứ, toàn là bí mật cả.
- Tôi làm việc cho hãng thám tử tư Parnell, - tôi nói và vẫn tiếp tục quan sát bà ta.
Bà Stobart là một diễn viên có hạng đấy nhưng chưa đủ siêu. Tay cầm ly rượu đưa lên uống còn vững, nhưng đã hơi run.
- Có phải anh muốn nói rằng anh thuộc loại sâu bọ ghê tởm chuyện đục khoét vào đời tư của mọi người không? Một thằng khốn chuyên đào bới?
Giọng bà ta đanh lại và bà ta đã hiện nguyên hình là một con điếm trở nên giàu có.
- Quả là một sự mô tả khá chính xác, - tôi nói và nhếch mép cười vô tư.
- Hãy để tôi yên, - bà ta nói bằng một giọng nghẹn ngào. - Tôi không muốn giao du với hạng người như anh.
- Mẹ tôi cũng khuyên tôi không nên giao du với gái điếm.
- Nếu anh không đi ngay lập tức, tôi sẽ kiện lên hội đồng, - bà làu bàu khó chịu.
- Thôi đi, Stella. Tôi cũng có thể tố cáo bà chứ. Thực ra, tôi không quan tâm bà, người tôi quan tâm chính là thằng Johnny kia.
Bà ta nhìn tôi khá lâu:
- Có thật là anh đang kiếm nó không?
- Đó là một phần công việc của tôi. Tôi có thể kiếm con trai bà ở đâu, bà Stobart?
- Tôi không biết gì hết.Tôi ngán câu chuyện này đến tận cổ rồi. Hãy để tôi yên.
Bà ta nói bằng giọng the thé.
- Tôi xin bà hãy bình tĩnh lại, bà Stobart, - tôi nghiêm giọng nói. - Tôi cần phải tìm bằng được Johnny. Bà nói rằng bà không biết nó ở đâu. Nhưng bà có thể cho tôi một gợi ý nào không? Có phải nó là đứa đồng tính và hiện đang sống với một gã da đen không?
- Đúng, nó là một thằng pê-đê, - cuối cùng bà ta cũng lên tiếng. - Một hôm nó tới gặp tôi và xin tiền. Từ đó tôi không bao giờ gặp lại nó nữa. Có thể nó đã chết rồi.
- Vì sao nó lại chết?
- Tôi không biết. Tôi ngán nó đến tận cổ rồi! Tôi hy vọng nó chết đi. Thế là xong!
- Bà có thể cho tôi một ý niệm về nơi có cơ may tìm ra nó không?
- Tôi không có một ý niệm nào hết. Tôi chỉ hy vọng nó sẽ không trở lại làm khổ tôi nữa. Anh có hiểu không? Tôi đã từng sống những ngày cơ cực không khác gì địa ngục! Bây giờ tôi đã có một người chồng giàu có. Cuộc đời tôi đã thay đổi, được kính trọng. Từ đây tôi đã được giải thoát, anh không hiểu điều đó có ý nghĩa nào với tôi đâu! Tôi đã được giải thoát, nhưng cái thằng pê-đê khốn nạn đó vẫn cứ ám ảnh tôi.
- Chuyện đó cũng tất nhiên thôi. Thế Mitch Jackson có phải là cha nó không?
- Thằng chó ấy đâu có đáng mặt làm chồng. Nó cũng như lão già khốn khiếp cha nó, chỉ muốn có con trai thôi. Mà tôi cũng đẻ cho nó một thằng con trai, dù là pê-đê. Khi đó tôi nghĩ rằng Mitch cưới tôi. Nhưng không. Rồi hắn chết và được tặng Huân chương. Anh thấy có khôi hài không?
- Vào lúc tám tuổi, Johnny đã trốn nhà bỏ đi. Tại sao vậy?
- Anh muốn biết cả điều đó à? Anh đã xem tôi là một con điếm cơ mà. Hãy để cho cái bộ não bé tí của anh nó động đậy một chút. Nếu anh định phá hoại cuộc đời tôi, thì anh bạn thám tử tư ạ, anh sẽ phải hối hận đấy.
- Cảm ơn về sự hợp tác của bà. Tôi hy vọng không làm hỏng bữa tối nay của bà.
Tôi nhìn bà đi lên hàng hiên trên và thấy bà ta giơ tay đáp lại tiếng gọi của ai đó. Tôi vẫn chưa tiến được bước nào trong việc tìm kiếm Johnny.
Tôi trở về nhà và bật ti vi xem cô bé tóc vàng ưỡn ẹo. Tôi bật sang kênh khác cũng gặp toàn cảnh đại loại như vậy. Tắt máy và chợt tự hỏi không hiểu Terry bây giờ ra sao.
Tôi bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi. Lúc này đã hơn ba giờ sáng. Tôi nhấc ống nghe.
- Hy vọng rằng mình đã không đánh thức cậu dậy, - OBrien nói.
- Đánh thức mình ấy à? Không đâu, mình vẫn đang ngồi chờ cậu. Có tìm được gì không?
- Nghe đây, Dirk. Sao cậu lại chơi khăm mình?
- Cậu nói sao?
- Mình đã tới tất cả câu lạc bộ pê-đê. Mình cũng đã gặp Flossie. Không có ai từng biết thằng Johnny của cậu cả. Cậu nên nhớ rằng Flossie biết tất cả bọn này. Anh ta có cả một danh sách. Không hề có thằng Jackson Johnny nào cả.
- Cũng không có thằng thanh niên tóc vàng, cổ đeo dây chuyền và tay mang lắc vàng cặp kè với một gã da đen cao lớn à?
- Mình còn phải nhắc đến bao nhiêu lần nữa đây? (Giọng của Terry đầy vẻ tuyệt vọng). Flossie đã khẳng định với mình là không có thằng Jackson Johnny nào hết. Ngay khi mình nói Jackson sắp được thừa kế, tất cả bọn pê-đê có mặt ở đó đều xô lại định giúp đỡ mình, nhưng không có đứa nào đã nghe nói về Johnny cả. Thế nào, cậu thỏa mãn chưa?
- Thì cũng phải thỏa mãn vậy thôi, - tôi nói trước khi gác máy.
- Chương 17:
Sáng hôm sau, tới văn phòng tôi nhận được hai thư nhắn. Bức thứ nhất: Ông Anderson nhắn anh gọi điện gấp. Bức thứ hai: Ông Benbolt nhắn anh gọi điện. Những điều mà Terry cho biết khiến tôi lo lắng. Tôi đang đứng trước bài toán lạ lùng. Johnny Jackson không tồn tại! Tất nhiên là tôi không thể chấp nhận theo Terry là anh ta không có mặt trên đời này được. Tôi cứ tự hỏi là Bêbê hay Phyllis nói dối tôi. Mà họ nói dối để làm gì mới được chứ? Cả hai đều kể rằng Johnny là một thằng đồng tính và nó cặp kè với một gã da đen. Thế mà Flossie lại khăng khăng không biết hai thằng đó.
Mà bằng chứng thì đây. Theo những điều tôi nghe được thì Johnny là thằng đồng tính mười mươi. Tất cả những người ở Searle đều nói nó là đứa ẻo lả và không thích con gái. Nếu điều đó không muốn nói rằng nó là pê-đê thì là gì nữa? Tôi nhấc máy gọi cho Anderson.
- Có tin mới cho anh đây, - cậu ta nói.
- Tin gì vậy?
- Tôi đã tìm được tung tích của khẩu Beretta được dùng để giết ông già Jackson.
- Cậu tìm bằng cách nào vậy?
- Như thường lệ tôi chỉ ngồi chơi xơi nước ở văn phòng mà. Nhưng khẩu súng cứ ám ảnh tôi, tôi bèn gọi điện cho tất cả đồn cảnh sát ở vùng biển này. Và rồi ở Jacksonville tôi đã gặp may. Họ nói rằng đã cấp giấy phép dùng khẩu súng đó sáu năm trước.
- Cho ai?
- Đây mới là điều đáng ngạc nhiên. Cho Harry Weatherspoon.
- Hoan hô Bill!
- Họ còn nói rằng hai năm trước, Weatherspoon có báo rằng khẩu súng đó đã bị mất cắp và cần phải hủy giấy phép đó.
- Nó bị mất cắp trong hoàn cảnh nào?
- Theo Weatherspoon thì có kẻ nào đó lẻn vào nhà máy lấy cắp tiền cùng với khẩu súng. Ông ta cũng nói với cảnh sát ở Jacksonville rằng cảnh sát trưởng Mason đang lo điều tra, nhưng vẫn xin hủy giấy phép.
- Thế ở đây có nhiều vụ bẻ khóa ăn trộm như vậy không, Bill?
- Không. Tôi chỉ biết có vụ đó, ngoài ra không có vụ nào khác.
- Nhưng tại sao Weatherspoon lại xin giấy phép ở tận Jacksonville?
- Tôi cũng đặt câu hỏi đó thì họ nói rằng Weatherspoon có thuê một căn hộ ở thành phố này một thời gian để tìm kiếm gì đó ở đây. Ông ta nói rằng cần khẩu súng để tự vệ. Weatherspoon giải thích với họ rằng ông ta là nhân viên của cơ quan phòng chống ma túy nên có rất nhiều kẻ thù. Và họ chấp nhận lời giải thích của ông ta.
- Cậu đã làm một việc tuyệt vời, Bill ạ! Điều này chắc chắn sẽ được đại tá Parnell đánh giá cao đấy.
- Tuyệt diệu! Anh có nghĩ rằng chính Weatherspoon giết ông già Jackson không?
- Đó là quan điểm của mình.
- Nhưng lạy Chúa, vì lý do gì mới được chứ?
- Mình đang đào bới vấn đề này. Khi nào sẽ tiến hành điều tra về cái chết của Weatherspoon?
- Hôm nay. Đám tang đã định vào ngày kia.
- Bác sĩ Steed vẫn khẳng định ông ta chết do tai nạn chứ?
- Tất nhiên rồi. (Anderson thở một hơi thật sâu). Thế không phải vậy sao?
Tôi không đáp.
- Hãy kể về khẩu súng đi, Bill. Bác sĩ Steed vẫn giữ nó chứ?
- Tôi nghĩ là vậy. Tôi không biết chính xác.
- Thế người ta đã lấy dấu tay chưa?
- Tôi rất muốn làm chuyện này nhưng bác sĩ Steed nói không cần.
- Thế cậu có biết đó đó đúng là khẩu súng bắn chết Jackson không?
- Chưa kiểm tra về mặt đạn đạo học, nếu đó là điều anh muốn hỏi.
- Lạy Chúa, lại thêm một cái lá nho nữa! Thôi được, chào Bill. - Tôi gác máy.
Sau đó tôi gọi điện cho văn phòng Howard và Benbolt. Không may lại gặp đúng mụ già thường trực. Nghe thấy tên tôi, bà ta bèn lên giọng trịch thượng.
- Ông ấy đi vắng rồi, - bà ta tuyên bố vẻ đắc chí.
- Ông ấy nhắn tôi gọi điện mà, - tôi cố kiên nhẫn.
- Ông ấy có để lại thư nhắn đây. Ông ấy muốn gặp anh vào lúc ba giờ chiều nay.
- Tôi sẽ tới, - tôi nói và gác máy.
Tôi lấy mấy bản báo cáo gửi đại tá ra đọc lại. Tôi thêm vào đó chi tiết Anderson vừa cho biết. Tôi đã hỏi chuyện tất cả mọi người liên quan trực tiếp hay gián tiếp với Johnny, chỉ trừ một người: Herbert Stobart. Cũng có thể ông ta chưa bao giờ nghe nói đến Johnny. Nhưng bây giờ tôi rất muốn nói chuyện với ông ta. Tôi đưa chị Glenda bản báo cáo thêm về cú điện thoại của Anderson và yêu cầu xếp chung với tập báo cáo tôi đã gửi trước đó.
- Anh định viết tiểu thuyết hả? - Chị ta hỏi bằng một giọng chế nhạo.
- Cũng là ý hay đấy! Thế mà tôi chưa nghĩ tới.
Tôi tới Câu lạc bộ Country, đỗ xe và đi lên tiền sảnh. Lúc đó khoảng mười một giờ mười.
Tôi tìm gặp Sammy Johson, người gác cửa, lúc đó đang soạn thư. Ông ta mỉm cười với tôi. Đại tá cũng không bao giờ quên ông vào những dịp Nôel và lễ Tạ Ơn. Vì ông ta như cái tai dán vào cửa, nên có ông ta trong tay áo là rất lợi hại.
- Chào Sammy, - tôi nói. - Trông ông ngày càng trẻ ra.
- Thì anh thấy đấy, - ông ta cười. - Có lẽ vậy, tôi cũng cảm thấy ngày càng trẻ ra.
- Ông Stobart có ở đây không?
- Ông ấy đang chơi golf. Chắc bây giờ đang ở lỗ mười bảy rồi.
- Tôi chưa bao giờ gặp, vậy làm thế nào nhận ra ông ta?
- Ông ấy sau khi chơi bao giờ cũng ngồi dưới hàng hiên bên dưới. Người nhỏ, đội chiếc mũ chơi bóng chày kẻ đỏ và trắng. Không lẫn vào đâu được.
- Cám ơn Sammy.
- Nếu anh muốn nói chuyện với ông ta thì không nên vào lúc này. Ông ta chơi golf để bàn việc với một ngài nào đó. Mà Stobart là người khó tính lắm.
- Một lần nữa cám ơn Sammy.
Tôi đi xuống hàng hiên bên dưới, thấy một chiếc bàn đứng biệt lập, tôi kéo chiếc ghế ngồi chờ đợi. Hai mươi phút sau, tôi thấy một người đội mũ chơi bóng chày kẻ sọc đỏ trắng. Ông ta vừa đi vừa nói chuyện với một gã nhỏ con, béo tròn và tôi nhận ra ngay đó là Edmundo Raiz. Tôi vội dịch nhanh ghế nấp kín hơn. Họ đi tới gần và ngồi cách tôi khoảng ba bàn.
Stobart ngồi quay lưng về phía tôi và Raiz ngồi xuống cạnh ông ta. Cả hai không ai nhìn về phía tôi.
Stobart bật ngón tay kêu đánh tách gọi người hầu bàn. Ông ta gọi bia, rồi nghiêng người ra phía trước tiếp tục nói chuyện với Raiz. Tôi thấy Raiz gật đầu lia lịa cứ như đang nhận mệnh lệnh. Tôi thất vọng không nhìn được rõ mặt Stobart, nhưng tôi kiên nhẫn đợi.
Người hầu bàn mang bia tới, Stobart ký hóa đơn, cho tiền boa và người hầu bàn lùi ra. Tôi thấy Stobart rút túi ra cái gì đó, mở ra rồi lấy bút viết. Tôi nhổm người nhìn và thấy ông ta đang viết séc. Viết xong ông đưa cho Raiz. Raiz cầm ngay lấy và đút nhanh vào ví.
- Tốt lắm, Ed, - Stobart nói cao giọng. - Hãy lên đường đi. Nhớ đổi ra tiền mặt và giải quyết gọn vụ này.
- Vâng, thưa ông Stobart. Ngay khi có tin, tôi sẽ gọi ngay cho ông.
- Đừng có đánh trượt đấy, nhớ chưa, Ed. - Stobart gắt.
- Ông cứ tin ở tôi, ông Stobart ạ.
Nói rồi hắn đi ngang qua hàng hiên và biến mất.
Rồi ông ta đứng dậy đi nhanh tới bậc thang dẫn lên hàng hiên trên. Tôi vội bám theo, nhưng giữ khoảng cách đủ xa, nên vẫn nhìn thấy lưng ông ta.
Trong gian tiền sảnh, ông ta mua một tờ Paradise City Herald ở quầy báo. Tôi chọn chỗ đứng ngay cạnh chiếc cửa quay nhìn ra hàng hiên phía trước. Bên dưới là chiếc Rolls sơn hai màu be và nâu. Một gã da đen lực lưỡng đứng đợi sẵn. Tôi nhận ra gã: đó chính là tên dọa tôi khi tôi từ nhà Hank Smith đi ra. Hốt hoảng, tôi lùi lại và xô phải Stobart đang đi ra cửa.
- Say hả? - Ông ta lầu bầu và nhìn tôi.
Chúng tôi nhìn vào mắt nhau và tôi sững sờ. Người đứng trước mặt tôi có hai con mắt sát nhau, cái miệng gần như không có môi và một vết sẹo chạy dài từ mắt phải tới cằm. Ông ta gạt tôi sang một bên rồi ra cửa. Thằng khỉ đột mở cửa xe, Stobart ngồi vào và chiếc xe phóng vụt đi.
Tôi đứng nhìn cho tới khi chiếc xe đi khuất. Bây giờ thì tôi biết Herbert Stobart chính là thằng bạn thân thiết của Mitch Jackson. Hắn chính là Syd Watkins!
- Chương 18:
Tôi gặp Benbolt ở văn phòng của ông.
Ông bắt tay tôi và vồn vã mời ngồi.
- Tôi vừa từ Searle về xong, - ông nói. - Do có người yêu cầu mua nhà máy nên tôi nghĩ rằng đã đến lúc nói với cô Peggy Wyatt. (Ông ta cười vẻ đểu giả). Cô bé hấp dẫn đấy chứ nhỉ? Lại còn gặp may nữa!
- Ai yêu cầu mua vậy?
- Ông thấy đấy, đã xảy ra quá nhiều chuyện. Bản di chúc của Weatherspoon thì không có vấn đề gì. Ông Seiler thuộc công ty Seiler đã gặp tôi và đưa một đề nghị khá hấp dẫn đối với nhà máy. Vì quyền lợi của cô Wyatt tôi buộc phải xem xét đề nghị này. Sáng nay tôi cho cô ta biết và cô ta đã chấp nhận bán.
- Người ta trả bao nhiêu?
Benbolt xoa chiếc cằm.
- Một số tiền rất lớn.
- Này ông Benbolt, bí mật nghề nghiệp của ông chẳng có nghĩa lý gì với tôi. - Tôi nói bằng giọng gay gắt. - Tôi đã nói với ông rồi, kẻ mua nhà máy sẽ là một tên buôn bán ma túy. Ông ta trả bao nhiêu?
- Thì tôi đã nói với ông rồi. - Đôi mắt ti hí của ông ta tối sầm lại. - Còn chuyện kia tôi cũng chỉ mới nghe ông nói thôi.
- Rồi ông sẽ phải đương đầu với các nhân viên cơ quan phòng chống ma túy. Mà họ không phải là những kẻ nhẹ tay đâu. Người ta trả bao nhiêu?
- Nếu cần, tôi sẽ làm việc thẳng với họ chứ không phải ông, ông Wallace ạ.
- Ai sẽ là người mua?
Ông ta ngả lưng ra ghế, gương mặt đầy vẻ thù địch.
- Ông Wallace ạ, nhiệm vụ của ông là tìm kiếm Johnny cơ mà. Liệu chúng ta có nên chỉ dừng ở đây thôi, được không?
Tôi chằm chằm nhìn ông ta.
- Ông muốn nói rằng ông từ chối hợp tác?
- Tôi chẳng có lý do gì phải cộng tác với một thám tử tư cả. Ông đã nói rằng nhà máy đóng hộp ếch bán ma túy. Tôi đã kiểm tra nhà máy và không thấy có gì chứng tỏ nó có những hoạt động khác với nhiệm vụ thực tế của nó. Đó chỉ là một doanh nghiệp phát đạt nhờ chuyên cung cấp đùi ếch cho các khách sạn lớn. Nếu việc bán nhà máy bị chậm trễ, các khách sạn sẽ bị mất khách và họ có thể sẽ tìm nguồn cung cấp khác. Khi đó công nhân có tay nghề sẽ bị thất nghiệp. Tất cả chỉ bởi vì những phỏng đoán không có căn cứ của ông cho rằng nhà máy có liên kết với bọn buôn bán ma túy. (Ông ta giơ tay xem đồng hồ). Tôi đề nghị ông đừng quấy rầy tôi nữa. Tôi không muốn mất thời gian vô ích với ông.
Tôi đứng dậy.
- Họ đã đút cho ông bao nhiêu, ông Benbolt?
Gương mặt ông ta bừng bừng sát khí.
- Cút ra khỏi văn phòng tôi ngay!
- Bình tĩnh nào, đừng có làm ra vẻ vô tư nữa đi, đồ khốn kiếp! - Tôi nói. - Rồi chúng ta sẽ gặp nhau ở tòa.
Nói xong, tôi hầm hầm bước ra ngoài.
Tôi quyết định phải liên lạc ngay với Peggy. Có cả một dãy cabin điện thoại ở gian tiền sảnh. Tôi tìm số phone của khách sạn Jumping Frog. Người nhấc máy là ông Abraham.
- Peggy có ở đó không, bác Abraham? Tôi đây, Wallace đây mà.
- Không. Cô ấy đi vắng rồi, Wallace ạ.
- Cô ấy đi đâu?
- Tôi nghĩ là đến nhà máy. Anh đã biết tin vui chưa? Bây giờ cô ấy là bà chủ ở đó rồi.
- Có, tôi biết rồi. Cám ơn bác. (Tôi gác máy).
Từ Paradise City tới Searle mất hơn hai giờ xe hơi. Và trong hai giờ đó nhiều chuyện có thể xảy ra. Dù sao tôi cũng thấy bứt rứt không yên và mỗi khi rơi vào trạng thái đó tôi luôn phải hành động.
Tôi gọi điện đến đồn cảnh sát Searle. Anderson nhấc máy.
- Bill, mình nhờ cậu một việc. Cậu hãy đến ngay nhà máy đóng hộp ếch xem Peggy có ở đó không và có chuyện gì xảy ra với cô ấy không.
- Có chuyện gì xảy ra với Peggy à? - Anderson hỏi vẻ ngạc nhiên. - Ý anh muốn nói gì? Anh biết tin gì chưa? Cô ấy vừa mới được thừa kế, Weatherspoon đã…
- Mình biết rồi. Hãy tới nhà máy xem cô ấy làm gì ở đó. Mình đang gọi điện cho cậu từ một cabin điện thoại, số đây. (Tôi đọc số cho Anderson). Cậu ghi xong chưa?
- Rồi. Nhưng có chuyện gì vậy?
- Đi ngay đi. Hãy nói chuyện với cô ấy, chúc mừng cô ấy và nếu thấy mọi chuyện ổn cả thì gọi điện ngay cho mình. Mình sẽ đợi.
- Đồng ý. Có thể anh phải đợi hơi lâu đấy.
- Mình sẽ chờ. Thôi, đi nhanh lên.
Tôi ngồi ở tiền sảnh, cạnh dãy cabin điện thoại, châm thuốc hút và nghĩ về Benbolt.
Tôi tin rằng người ta đã mua được hắn. Chắc Seiler đã đút cho hắn để đảm bảo nhà máy sẽ được bán. Liệu hắn có biết những chuyện đã xảy ra ở nhà máy không nhỉ?
Cuối cùng, sau bốn mươi phút chờ đợi và đốt tới sáu điếu thuốc, tôi nghe tiếng chuông điện thoại trong cabin. Tôi vội nhấc máy.
- Anh Dirk hả?
- Mình đây. Có chuyện gì không?
- Tại sao anh cứ cuống lên thế? Tôi đã đi bộ tới nhà máy. Peggy cũng có ở đó. Cô ta đang phát điên lên vì sung sướng. Tôi vừa mới cất lời chúc mừng thì cô ta đã ngắt lời ngay: “Không phải bây giờ, Bill. Sau này hẵng hay. Tôi đang bận lắm”. Rồi cô ta đóng sập cửa ngay trước mũi tôi.
- Chỉ có thế thôi à?
- Thế thôi. Anh sợ cái gì mới được chứ?
- Cô ta đang bận việc à? Có ai ở đó với cô ta không?
- Có. Qua cửa sổ văn phòng tôi thấy có một gã có vẻ như người Mêhicô.
- Mẹ kiếp! - Tôi nói rồi gác máy.
Tôi chạy ngay tới chỗ đỗ xe.
Khi tôi tới nơi, tôi thấy một thằng bé tóc vàng chừng mười hai tuổi đang đứng cạnh xe.
- Xe chú bị xịt lốp rồi, - nó nói. - Cháu thấy một gã thọc dao vào lốp.
Tôi nhìn xuống bánh xe trước. Lốp đã bị xẹp chẳng còn tí hơi nào.
- Nó nhìn thế nào? - Tôi hỏi.
- Một gã da đen đội chiếc mũ lớn màu đen. Hắn đeo cả một tá dây chuyền và hôi hám lắm.
Lại thằng khốn kiếp đó.
Tôi lấy lốp dự phòng ra thaỵ Hàng năm nay có xảy ra chuyện này bao giờ đâu. Sau khi thấy tôi loay hoay một lúc, thằng bé nói:
- Chú lắp sai rồi. Để cháu làm cho.
Thằng bé thay chiếc lốp chỉ trong mười phút. Tôi phải mất hơn nửa giờ nữa mới tới được đó.
- Cháu tên gì? - Tôi hỏi trong khi đặt chiếc lốp xịt vào trong cốp.
- Wes Bridley.
- Nếu một ngày nào đó cháu muốn trở thành thám tử tư, hãy tới gặp chú ở hãng Parnell. Chú sẽ giúp cháu vào làm trong đó. (Rồi tôi đưa cho thằng bé năm đôla).
- Cháu mà làm thám tử đấy à? Đâu có hay ho gì. (Nó nhăn mũi). Cháu thích làm chủ nhà băng kia.
Tôi ngồi vào xe, giơ tay chào nó, rồi phóng thẳng về Searle. Tôi đi theo con đường ven biển và cố giữ không vượt quá tốc độ cho phép cho tới tận Fort Pierce, từ đây tôi đi ra quốc lộ 8. Đoạn đường tới Fort Pierce rất đông xe cộ và tôi tin rằng Raiz đã ra lệnh cho thằng nhọ đó làm chậm thêm hành trình của tôi. Mặc dù vậy, tôi vẫn lái thận trọng không vượt quá sáu mươi cây số một giờ để không cho cảnh sát làm chậm trễ tôi hơn. Trên quốc lộ 8, xe cộ vắng hơn và tôi đã liều chạy tới hơn chín mươi cây số giờ.
Tôi cố không nghĩ tới Peggy. Tôi nhớ Stobart đã trao cho Raiz một tấm séc và nói với anh ta đổi ra tiền mặt. Lóa mắt trước cả đống tiền mà Raiz mời mọc, giờ này chắc Raiz đã thuyết phục được Peggy bán nhà máy mất rồi.
Cách hồ Placid khoảng chục cây số, tôi chợt thấy một chiếc xe chở đầy cam chạy bám theo tôi chừng mấy mét. Giờ tôi mới nhớ rằng thực ra nó đã theo tôi một thời gian rồi. Có lẽ vì lúc nào cũng có hàng chục xe tải chở rau quả chạy trên quốc lộ nên tôi đã không để ý. Nhưng tôi chạy với tốc độ cả trăm cây số giờ vẫn thấy nó bám theo sát.
Phía trước, con đường thẳng băng, hai bên là cây cối và các rãnh thoát nước. Tôi quyết định cắt đuôi và nhấn ga hết cỡ. Chiếc xe của tôi vọt lên và đạt tới tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ. Tôi liếc mắt nhìn qua gương hậu thấy chiếc xe tải đã bị bỏ lại phía sau. Tôi đã cách nó vài trăm mét, nhưng không thể tiếp tục duy trì tốc độ này mãi được. Rất nhiều xe tải chạy ngược chiều và tôi chợt thấy ngay trước mặt một chiếc xe tải hai mươi tấn, chất đầy rau quả, đang ì ạch chạy như rùa. Tôi đạp hờ phanh và chờ cơ hội vượt lên. Nhưng xe chạy ngược chiều mỗi lúc một đông và qua gương hậu tôi thấy chiếc xe tải chở cam chỉ còn cách tôi vài mét.
Đó là một chiếc xe loại nhỏ mang biển số Miami. Kính chắn gió màu xanh không cho phép tôi nhìn rõ mặt người lái. Thấy có thể vượt lên, tôi nhấn ga. Tôi rất sợ sẽ bị ép ở bên phải. Một chiếc xe con phóng rất nhanh vừa khẽ đánh tay lái đã suýt đâm phải tôi. Tôi chỉ kịp nghe thấy tiếng còi, chiếc xe đã mất hút ở phía trước.
Tôi rất cố gắng giữ bình tĩnh. Qua gương chiếu hậu tôi lại thấy chiếc xe cam chỉ cách tôi vài mét. Mà tôi đang chạy với tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ chứ ít đâu. Tôi chợt thấy một cánh tay đen đặt trên thành cửa của chiếc xe tải.
Lại một thằng đen! Bên phải tôi lúc đó là một hào sâu, sau đó là hàng cây. Đường hào này dùng thoát nước vào mùa mưa. Tôi lại nhìn qua gương hậu. Chiếc xe tải đã biến mất lúc nào! Toát mồ hôi , tôi liếc mắt sang trái. Chiếc xe tải khốn kiếp ở ngay cạnh tôi. Cabin quá cao nên tôi không nhìn được người lái. Tôi hiểu ngay nó sẽ ép xe và cho tôi lăn xuống hào.
Linh tính mách bảo tôi nhấn ga, nhưng đây không phải chiếc xe tải bình thường. Nó có thể chạy nhanh không kém gì tôi. Tôi đạp phanh và đè mạnh hai tay lên vô lăng để bánh sau không bị trượt.
May mà phanh tôi còn tốt. Tôi thấy chiếc xe tải vọt lên trước. Cái chắn va sau của nó quệt vào cái chắn va trước của tôi. Chiếc xe của tôi quặt về phía đường hào. Nhờ đè tay lái thật lực, tôi đã làm cho chiếc xe không lao xuống đó.
Nhưng số phận chiếc xe tải không được may mắn như thế. Mải hất tôi xuống hào, tên lái xe không để ý phía trước. Đúng lúc đó có chiếc xe tải cỡ lớn lao tới. Gã lái xe vội quặt tay lái và chiếc xe đâm xuống hào. Tiếng kim loại vặn gãy tạo ra những âm thanh chát chúa.
Tôi dừng xe và bước xuống. Chiếc xe hai mươi tấn cũng vừa tới và dừng lại. Cả dòng xe phía sau tắc nghẽn. Cánh lái xe tải đều xuống xe. Họ cùng với tôi đi tới chiếc xe bị lật. Chúng tôi nhìn vào cabin xe. Đầu hai thằng nhọ đều bị đâm qua kính chắn gió, trông đến sợ.
- Chương 19:
Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog, đồng hồ đã chỉ mười rưỡi đêm. Trước khi tới Searle, tôi đã suy nghĩ về những điều đã xảy ra. Rõ ràng là người ta đã định giết tôi. Tôi tự nhủ từ nay về sau phải hết sức thận trọng. Tôi vẫn băn khoăn không biết Benbolt có nói với Raiz về việc tôi đã biết về mạng lưới buôn bán ma túy không.
Có thể lắm.
Tôi khoan khoái nghĩ tới bản báo cáo và hộp đùi ếch đang đợi đại tá trở về.
Tôi gặp ông già Abraham ở quầy tiếp tân. Ông mỉm cười chào tôi.
- Peggy đâu? - Tôi hỏi.
- Ở đây. Đang trong văn phòng. Cô ấy đang làm việc với ông Willis Pollack, công chứng viên của chúng tôi. Anh đã biết tin gì chưa? Peggy giàu to rồi.
- Bố Peggy đâu?
Nụ cười của ông già tắt hẳn.
- Ông ấy đang nằm trong giường. Tội nghiệp ông chủ. Chắc đận này ông ấy không qua khỏi mất.
Tôi vòng qua quầy tiếp tân, gõ cửa văn phòng và bước vào.
Ông già Pollack đang ngồi trên tràng kỷ, còn Peggy đứng sau bàn. Họ đang chúc nhau sâm-panh.
- Chào Dirk! - Peggy cười hết cỡ. - Anh ở đâu mấy hôm nay? Chúng tôi đang ăn mừng đây. Hãy cùng vui với chúng tôi nhé.
- Cám ơn, - tôi nói. - Hai người đang ăn mừng gì vậy?
- Em đã bán xong cái nhà máy đóng hộp ếch rồi! Harry đã di chúc để lại cho em tất cả. Em giàu rồi!
Tôi kéo ghế ngồi xuống.
- Các vị đừng để mất thời gian nữa. Người ta đã chôn Weatherspoon đâu.
- Hãy kể cho anh ấy nghe đi, ông Pollack. Tôi muốn anh ấy biết. - Peggy nói và rót sâm-panh cho tôi. - Anh thấy đấy, anh Dirk, anh hoàn toàn có quyền được ăn mừng như em mà!
Tôi cầm lấy cốc, nâng lên và uống một ngụm rồi đặt xuống bàn.
- Bán rất được giá, anh Wallace ạ. - Pollack nói. - Peggy đã làm một việc rất đúng là đã xin ý kiến tôi.
- Khi ông Benbolt cho em biết nội dung bản di chúc của Harry và nói rằng ông ta có thể bán được nhà máy, em đã phóng ngay tới gặp ông Pollack. Ông Pollack có mặt cùng với em khi Raiz tới.
Ông Pollack nhìn tôi cười.
- Nói thật lòng, anh Wallace ạ, tôi không ưa anh ta lắm, nhưng hắn có vẻ là người làm ăn đứng đắn. Hắn nói rằng hắn muốn mua nhà máy, nếu để muộn, sẽ phải giải tán nhân sự và sẽ mất khách ở những nhà hàng lớn. Tôi thấy cũng có lý. Anh ta đề nghị hai trăm năm mươi ngàn đô. Tôi thấy cái giá đó là được rồi. Anh ta đề nghị trả trước năm mươi ngàn bằng tiền mặt, hai trăm ngàn còn lại sẽ trả khi bản di chúc có hiệu lực. Nếu Peggy chấp nhận, anh ta sẽ cho người tới nhận nhà máy ngay ngày mai. Khi đó sẽ giữ nguyên nhân sự của nhà máy và giữ được khách hàng. Đó là đề nghị chấp nhận được và tôi khuyên Peggy ký giấy đồng ý. Bắt đầu từ ngày mai, Raiz sẽ là ông chủ của nhà máy, mặc dù bản di chúc còn chưa có hiệu lực. Cuối cùng, sau một hồi bàn tính, tôi đã buộc Raiz phải chấp nhận nếu kết cục không thành thì số tiền năm mươi ngàn đặt trước sẽ thuộc về Peggy. Vậy là dù có chuyện gì đi nữa thì trong tay cô bé này cũng đã có năm mươi ngàn đô.
Tôi nâng cốc chúc sức khỏe của Peggy và uống cạn một hơi.
- Thật là tuyệt vời.
- Sao lại không? Bây giờ em đã có cái để chăm sóc cho ba em, - Peggy nói với đôi mắt bừng sáng. - Từ lâu em đã mong ước được chăm sóc tử tế cho ba em. Rồi em sẽ đưa ba em đến bệnh viện ở Miami. Em rất hy vọng và cầu mong ở đó người ta sẽ điều trị khỏi cho ba em.
Tôi nhìn Pollack và thấy ông buồn rầu lắc đầu.
- Tôi đã báo trước với Peggy rồi, - ông nói. – Sẽ chẳng có hy vọng gì đâu.
- Tôi cóc cần biết! Tôi sẽ đưa ba tôi đến bệnh viện. Tiền bạc để làm gì nếu không giúp cho những người thân yêu của mình?
- Thế còn khách sạn? - Tôi hỏi. - Em cũng sẽ bán chứ?
Cô gái lắc đầu.
- Không phải bây giờ. Em đã đổi ý rồi. Ba em muốn em giữ lại khách sạn. Với số tiền bán nhà máy và cửa hàng thực phẩm, em sẽ tân trang lại. Ông Pollack cũng cho rằng làm như thế là phải.
- Thế kết quả điều tra về cái chết của Weatherspoon thế nào? - Tôi hỏi ông Pollack.
- Tất cả được tiến hành rất nhanh: chết do tai nạn.
Tôi nhún vai. Bác sĩ Steed đã thực sự chứng tỏ lòng trung thành với người bạn già sâu rượu của mình.
- Peggy, một lần nữa xin chúc mừng em! Chúc em có nhiều may mắn hơn.
Tôi bước ra và đi lên phòng. Nằm dài trên giường và vẫn còn hơi choáng về vụ mưu sát. Tôi đã gần như phanh phui một mạng lưới buôn bán ma túy. Nhưng nhiệm vụ chính của tôi là tìm kiếm Johnny Jackson. Vậy tôi lại phải làm theo lời khuyên của cha tôi. “Nếu con bị bế tắc, kệ nó, hãy quay trở về những dữ liệu ban đầu và khi ngẫm nghĩ, có thể con sẽ phát hiện ra đầu mối quan trọng mà trước đó con đã bỏ qua”. Tôi đành quay trở lại những dữ liệu ban đầu và suy nghĩ rất lâu.
Tôi xua đuổi khỏi đầu óc cái mạng lưới buôn bán ma túy, Raiz, Stobart và Stella. Chúng chỉ làm phân tán đầu óc tôi. Tôi cố tập trung chú ý vào ông già tốt bụng trồng hoa hồng Wally Watkins. Tôi hình dung thấy rõ ông mồn một vào lúc tôi hỏi ông gần đây có gặp Johnny không và lúc đó tôi nhớ rằng ông có vẻ lưỡng lự. Một sự lưỡng lự thường thấy ở những người nhân hậu và trung thực mỗi khi họ sắp phải nói dối.
Tôi thấy đói và đi xuống nhà ăn, rồi gọi món chính trong ngày: một miếng sườn bò.
Ăn tối xong, tôi lấy xe đi tới nhà ông Watkins. Tôi rời đường lớn và đậu xe ở cạnh đường, cách nhà ông Watkins chừng vài trăm mét. Qua chỗ ngoặt tôi đã nhìn thấy ngôi nhà.
Tôi lặng lẽ đi vòng quanh ngôi nhà và ra phía sau. Không thấy ánh đèn trong các buồng ngủ. Tôi đã mang theo đèn pin cực mạnh phòng xa. Tôi dừng lại dỏng tai lên nghe.
Tôi phát hiện có một cái cửa nhỏ và tôi đi qua đó vào vườn sau, rồi đi ra phía trước ngôi nhà. Tivi trong phòng khách đang bật. Trước mặt tôi là mấy cái cửa sổ phòng ngủ. Một cánh mở toang. Đó là phòng của ông Watkins. Tôi chiếu đèn pin nhìn vào. Sau đó tôi chiếu vào phòng bên cạnh. Phòng này nhỏ hơn phòng kia, diêm dúa và đầy nữ tính với một chiếc giường đơn. Trong phòng có một bàn trang điểm nhỏ, trên đặt một lọ nước hoa và mấy thứ trang điểm của phụ nữ. Thu hút tôi là một bộ tóc giả dài màu vàng treo trên một cái giá. Tôi cố tìm cách mở cửa sổ này, nhưng nó đóng chặt và cài then bên trong. Tôi quay sang chiếc cửa sổ mở ở phòng ông Watkins, lặng lẽ trườn vào, mở nhẹ cửa và đi vào một hành làng tối om.
Ông Watkins đang mải nghe thời sự. Tôi đi tới phòng phụ nữ, mở cửa và lẻn vào. Tôi khép cửa vào rồi chiếu đèn quan sát phòng. Theo cách bày biện thì đây là phòng của một cô gái trẻ. Có mấy con búp bê đặt trên giá đóng ở tường sau. Một con gấu bông đã sờn đặt trên một chiếc ghế. Tôi chiếu cao đèn thì thấy một cái khung gỗ treo trên đầu giường. Thì ra đó là khung của tấm Huân chương. Đến sát hơn tôi thấy mấy chữ Huân chương Danh dự. Huân chương của Mitch trước kia được treo ở đầu giường ông già Fred, còn bây giờ nó treo ở phòng này. Ai đang sống ở đây? Liệu có phải Johnny. Liệu nó có ái nam ái nữ tới mức dùng bộ tóc giả của phụ nữ, chơi búp bê kia không? Cũng có thể, nhưng tôi hơi ngờ. Tôi đi tới mở tủ quần áo. Có một số bộ váy áo treo ở đây. Tất cả đều là váy của thiếu nữ, loại rẻ tiền. Trên giá tôi còn phát hiện được hai chiếc xu chiêng và ba chiếc quần lót trắng.
Tôi nhìn Huân chương một lần nữa rồi đi sang phòng Watkins và trườn qua cái cửa sổ ra ngoài. Tôi bấm chuông. Tôi nghe tiếng tắt tivi, sau đó im lặng hoàn toàn. Sau một lúc khá lâu, cửa trước mở ra và ông Watkins nhìn tôi ngạc nhiên.
- Chào bác Watkins, - tôi nói. - Cháu là Dirk Wallace đây mà.
- Tưởng ai, - ông già nói và đứng chắn trên ngưỡng cửa. - Anh đến không đúng lúc rồi. Ngày mai anh đến được không?
- Rất tiếc là ngày mai cháu không thể đến được.Cháu muốn nói về con trai bác.
Tôi thấy ông co dúm người lại.
- Anh Wallace ạ, tôi nghĩ là tôi đã nói rằng tôi không quan tâm tới thằng đó nữa rồi mà. Nếu anh có điều gì cần nói với tôi, thì hãy cố đợi đến ngày mai. Xin lỗi, mong anh thông cảm, - ông nói và có ý khép cửa lại.
Tôi cứ bước tới.
- Rất tiếc, bác Watkins ạ. Nhưng đây là vấn đề liên quan tới cảnh sát. Và có thể liên quan tới bác nữa. Tốt nhất là ta nên nói chuyện với nhau.
- Một việc liên quan tới cảnh sát ư?
Ông lùi lại và tôi bước vào hành lang rồi khép lại.
- Đúng như vậy, một lần nữa mong bác thứ lỗi.
Ông lưỡng lự rồi ông mở cửa phòng ăn.
- Nếu vậy thì mời anh vào đây.
Tôi theo ông vào căn phòng tiện nghi, bàn ăn đã được dọn sẵn cho hai người.
- Tôi hy vọng rằng câu chuyện của anh không kéo dài chứ, anh Wallace. Tôi sắp ăn tối mà. Tôi có thể mời anh uống chút gì chứ?
- Không. Cám ơn bác.
Tôi ngồi trên chiếc tràng kỷ.
- Cháu rất tiếc phải nói với bác rằng con trai bác hiện trong tình trạng rất nghiêm trọng. Chỉ vài ngày nữa anh ta sẽ bị bắt vì đứng đầu mạng lưới buôn bán ma túy ở Searle này.
Tôi quan sát và thấy ông già nhảy dựng lên.
- Con tôi? Ở ngay đây? (Rồi ông thả người xuống ghế). Tôi hoàn toàn không hiểu. Syd ở ngay đây ư?
- Không. Anh ta không ở Searle. Anh ta ở Paradise với cái tên Herbert Stobart. Harry Weatherspoon và anh ta tổ chức một mạng lưới buôn bán ma túy mang lại rất nhiều tiền bạc. Hàng năm Harry phải kiếm hơn ba triệu đô.
- Weatherspoon? - Ông già sững sờ hỏi.
- Hãy cho phép cháu giải thích cho bác hiểu, bác Watkins ạ. Điều cháu sắp nói với bác phần lớn là dựa trên các giả thuyết. Nhưng cháu có những bằng chứng khẳng định những giả thuyết đó là chính xác. Tất cả mọi chuyện bắt đầu ở Việt Nam. Weatherspoon lúc đó là nhân viên của cơ quan phòng chống ma túy của quân đội. Trong đám binh lính có rất nhiều tên nghiện ma túy. Weatherspoon đã phát hiện ra một gã chuyên bán ma túy cho đám lính trẻ. Gã này chắn chắn phải có kẻ cung cấp. Và Weatherspoon đã tìm ra kẻ cung cấp đó chính là con trai bác. Trước khi tên bán ma túy - hắn chính là Mitch Jackson - lẽ ra đã bị bắt, thì hắn chết. Weatherspoon hẳn là đã biết số tiền Mitch kiếm được là rất lớn. Vốn là tên hám tiền, hắn liên lạc với con trai bác và hai đứa đã móc ngoặc với nhau. Sau khi cả hai giải ngũ, chúng nghĩ ra cách dùng ếch đóng hộp để ngụy trang cung cấp heroin cho những tay giàu có sa đọa. Ma túy được cho vào túi nylon giả danh là bột pha nước chấm bán kèm với đùi ếch. Đây là một ý tưởng tuyệt vời và chúng không hề phải mạo hiểm chút nào. Con trai bác đã lập cả một danh sách lớn gồm những khách hàng đặt thường xuyên và gửi heroin trong hộp đùi ếch mỗi tháng một lần. Weatherspoon có nhiệm vụ đặt các túi heroin vào hộp đùi ếch và con trai bác lo việc chuyển cho khách hàng và cung cấp heroin. Nhưng rồi giữa chúng đã có chuyện. Chuyện gì thì cháu không biết, nhưng Weatherspoon quyết định rút ra khỏi hội này. Hắn đã để ra được nửa triệu đô và quyết định bỏ không làm tiếp nữa. Có thể là hắn đã bất đồng với con bác, cụ thể thế nào thì cháu không biết. Nhưng điều đó không quan trọng. Cũng như số phận của tất cả những kẻ tham gia trong mạng lưới buôn bán ma túy quyết định từ bỏ không làm tiếp nữa, hắn đã phải bỏ mạng. Nhà máy đóng hộp ếch vừa mới được mua bởi một gã người Mêhicô, Edmundo Raiz, do con trai bác bỏ vốn. Bọn chúng tưởng sẽ vẫn còn tiếp tục được việc buôn bán mờ ám như trước. Nhưng cháu đã thu thập đủ bằng chứng để tống tất cả lũ này vào nhà đá ít nhất là mười lăm năm.
Ông già Watkins ngồi bất động một lúc lâu rồi nhìn tôi.
- Tôi đã nói với anh rằng tôi không muốn dây dưa với thằng con trai tôi nữa. Những điều anh nói với tôi thật kinh khủng. Tôi hy vọng Syd sẽ nhận được những gì xứng đáng với nó. Có lẽ tôi cũng phải cám ơn anh đã cất công đến đây báo cho tôi biết, nhưng tôi không thấy mình có gì liên quan tới vụ này cả. Tất nhiên, điều này khiến cho tôi đau lòng, nhưng Syd đã luôn luôn gây đau khổ cho vợ chồng tôi từ lâu rồi. Anh nói rằng tôi có thể liên quan. (Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi). Thế thì tôi liên quan ở cái gì?
Tôi không trả lời câu hỏi của ông để ông tiếp tục không giữ được bình tĩnh.
- Cuộc đời nhiều bí ẩn lắm, bác Watkins ạ. - Tôi nói. - Mươi hôm trước hãng chúng cháu nhận được bức thư của Fred Jackson yêu cầu tìm đứa cháu nội của ông ta. Ông già đã thanh toán ngay một trăm đôla và chúng cháu đã nhận nhiệm vụ đó. Chỉ duy nhất bởi vì Jackson đã nhắc nhở đại tá Parnell rằng Mitch, con trai ông, đã phục vụ ở Việt Nam dưới quyền đại tá và đã được truy tặng Huân chương Danh dự. Và đại tá đã giao cho cháu công việc tìm Johnny. Trong quá trình điều tra cháu đã phát hiện ra một mạng lưới buôn bán ma túy. Nhưng đó chỉ là sản phẩm phụ, mặc dù rất quan trọng. Hiện cháu vẫn chưa tìm ra Johnny Jackson. Mấy hôm trước cháu có hỏi bác gần đây có gặp anh ta không. Bác trả lời cháu là không. Nhưng ngay lúc đó cháu đã có cảm tưởng rằng bác đã không nói thật với cháu. Bây giờ cháu lại xin hỏi lại một lần nữa: Gần đây bác có gặp Johnny Jackson không?
Ông già cúi nhìn chăm chú hai bàn tay và không nói gì.
- Gần đây bác có gặp Johnny Jackson không? - Tôi nhắc lại.
Nhìn vẻ rầu rầu của ông, tôi thấy rằng ông đang chuẩn bị nói dối một lần nữa. Nhưng đúng thời điểm đó, cánh cửa đột ngột mở ra và Bêbê Mansel bước vào.
- Xéo khỏi đây ngay, thằng khốn! - Cô ta hét lên. - Đứng lên và xéo ngay đi.
Tôi nhìn cô Bêbê vẫn mặc chiếc áo phông làm nổi rõ bộ ngực căng tròn và chiếc quần bò bó. Mái tóc đen mượt mà thả dài xuống ngang eo. Gương mặt nhỏ trắng trẻo sầm lại như tạc bằng đá.
- Bây giờ thì khỏi phải đuổi tôi cũng đi! - Tôi nói và đứng dậy.
Tôi nhìn Watkins. Ông vẫn ngồi bất động trong ghế phô-tơi và không rời mắt khỏi bàn tay mình.
- Bác Watkins, bác vẫn chưa trả lời câu hỏi của cháu.
Bêbê sấn sổ xông đến tôi, nắm lấy tay tôi và làm cho tôi quay tại chỗ.
- Xéo đi! - Cô ta rống lên.
Tôi nhìn cô ta và bất chợt hiểu ra tất cả. Căn phòng ngủ thứ hai, con gấu bông và lũ búp bê, tủ quần áo con gái và tấm Huân chương Danh dự treo trên tường.
- Tất nhiên rồi, tôi sẽ đi.
Cô gái mở toang cửa.
- Xéo ngay khỏi đây!
Khi đi ngang qua cô, tôi tóm lấy một lọn tóc đen và mượt rồi giật mạnh. Bộ tóc giả tung ra. Cô gái hét lên và giơ tay định tát tôi, nhưng tôi chộp được cổ tay cô.
Tôi nhìn mái tóc vàng cắt ngắn như của con trai của cô, rồi mỉm cười:
- Chào Johnny Jackson, - tôi nói. - Thế là cuối cùng tôi đã tìm ra cậu.
Trang 2 trong tổng số 3 trang • 1, 2, 3
Fanpage
|
|